Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi học tiếng Đức

23/09/201509:49(Xem: 3252)
Tôi học tiếng Đức
Germany

Tôi học tiếng Đức

NH – Hoàng Thị Doãn



Sau hai tháng ở trại tị nạn để hoàn tất các thủ tục giấy tờ, tôi được sở lao động cho đi học tiếng Đức trong 10 tháng.

Lần này tôi đi học không phải với tâm trạng „một sớm sương thu đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi …“ cũng không còn dư âm của những tiếng trống trường xưa vẫn mãi còn vang vọng để lòng tôi lại thấy nao nao mỗi độ thu về mà tôi phải lầm lũi lội tuyết để đi trong băng giá lạnh lùng. Ôi, 10 tháng đi học cực hình như đi lao động khổ sai vậy. Tôi đã già rồi, đầu óc có còn chỗ trống đâu mà nhét chữ vào, nhất là cái thứ chữ hiểm hóc đó; nhưng nếu không chịu đi học thì lại càng khổ nữa, vừa dốt vừa lãnh tiền trợ cấp quá ít làm sao đủ sống! Sự kiểm soát những ngày đi học rất nghiêm ngặt, nghỉ học ngày nào trừ tiền ngày đó. Một ngày học 5 tiếng, quá sức nặng nề đối với tuổi già như tôi, vậy mà cũng phải cố gắng nhồi nhét được chữ nào mừng chữ đó, thật tội nghiệp cho thân tôi biết là bao!

Những ngày  còn ở lại Việt Nam, theo lời khuyên của hai đứa con ở Đức, tôi đã phải cố gắng đi học môn sinh ngữ này. Ngày đi buôn chợ trời, tối đi học ở trung tâm đêm, ngặt một nổi thứ tiếng này không mấy ai ưa nên học hết lớp 1 hoặc quá lắm đến lớp 2 là đa số bỏ cuộc. Tôi muốn học cho hết cuốn sách căn bản (lớp 4) cũng không có lớp nào học, đành tối về nhà tự học thêm lấy một mình!

Ngày đầu tiên khi đến trường sinh ngữ ở đây, tất cả phải qua một kỳ thi xếp lớp. Trước đó, tôi có hỏi ý kiến các con tôi là có nên bỏ giấy trắng để được xếp vào lớp vở lòng không vì tôi muốn học lại từ đầu, nhưng các con tôi không tán thành, cho rằng học như vậy phí quá so với sức học của tôi.

Cũng nhờ có học trước ở Việt Nam và nghe lời khuyên của các con nên khi vào thì tôi có làm được phần nào bài vở. Hai ngày sau đến xem kết quả, một mình tôi được lệnh là ngồi chờ ông Hiệu trưởng giải quyết, tôi hoang mang vô cùng, không biết sự việc gì sẽ xảy ra cho mình đây! Thì ra với bài trắc nghiệm đã làm, tôi được xếp vào một lớp có trình độ cao hơn các người quen đã cùng đi thi với tôi. Nghe vậy tôi sợ quá, năn nỉ xin cho tôi vào lớp 1 nhưng ông Hiệu trưởng cương quyết không cho, cũng bảo rằng học như vậy nó phí đi. Eo ôi, tôi bị đưa vào một lớp mà ông thầy giảng bài toàn tiếng Đức, tôi như người từ cung trăng rơi xuống, chẳng hiểu mô tê gì cả, đầu óc quay mòng mòng, cứ sợ ông Thầy kêu lên hỏi tôi biết trời trăng gì mà trả lời. Cuối giờ học, sợ quá tôi chạy đến văn phòng xin đổi lớp ngay. Ngày mai lại tôi được đưa vào một lớp tương đối có trình độ thấp hơn, nhưng khi bước vào thấy toàn mũi lõ mắt xanh tôi lại một phen hoảng hồn! Một mình tôi lạc lõng giữa những người xa lạ như vậy làm sao tôi không sợ được.

Sau một tuần học buồn và cô đơn quá, tôi lại xin cô giáo cho tôi về lại lớp có người quen của tôi nhưng cô giáo không bằng lòng. Cô bảo tôi phải học ở lớp này mới mong khá được, chứ về học với các bạn cứ nói tiếng Việt hoài làm sao giỏi tiếng Đức được. Thế là ngày đêm vò võ một mình, tôi cặm cụi học, hôm nào bài vở nhiều quá, tôi cho cả nhà ăn cơm với trứng luộc. Tôi phải cần cù kiên nhẫn để học, khổ sở vô cùng, học đâu quên đó. Vào lớp tôi sợ nhất là mục kể chuyện - mục này do một Thầy phụ trách - vốn liếng tiếng Đức của mình quá ít ỏi vậy mà một tuần phải một lần nghe đọc truyện và kể lại. Thầy đọc một đoạn rồi ngừng kêu một người kể lại, tôi run quá chừng, cứ sợ đến phiên mình không kể được thật ê cả mặt. Vào những giờ đó ước gì dấu được cái mặt mình xuống gầm bàn thật hạnh phúc vô cùng. Ông Thầy dạy lại quá nghiêm khắc, trong giờ học không cho lật từ điển, không cho xài tiếng Pháp hoặc tiếng Anh . Tôi luôn luôn dấu quyển tự điển dưới hộc bàn, chữ nào không hiểu lẹ lẹ lật ra và cũng chính vì vậy mà tôi đã cống hiên cho cả lớp một trận cười bò lăn bò càng, cười chảy cả nước mắt!

          Số là hôm đó Thầy giảng động từ FEDERN. Tôi không hiểu gì cả nên vội vàng cúi xuống lật từ điển ra. Sau khi tìm ra nghĩa của nó rồi, tôi tự tin ngồi khoanh tay trước mặt đợi Thầy gọi. Đúng như vậy, Thầy bắt tôi giảng nghĩa, tôi không đủ từ để diễn đạt và xin Thầy cho làm một ví dụ. Tôi đã đặt một câu với nội dung là „ Tôi đã làm mất lòng Fred“ (anh chàng ngồi bên cạnh tôi). Không hiểu sao khi vừa nói xong câu đó, cả lớp và Thầy cười ầm lên, có người không nín được phải nằm lăn trên bàn mà cười, còn tôi thì mang vẻ mặt „con nai vàng ngơ ngát đạp trên lá vàng khô“, hết nhìn người này đến nhìn người khác. Sau một trận cười thỏa thích, Thầy đã xin lỗi vì đã cười nhiều quá và cho phép tôi lật tự điển ra xem. Eo ôi! Các bạn ơi, thiên địa ơi! Thay vì nghĩa của nó là „làm mất lông“, tôi đã đọc ra „Làm mất lòng“!

Dần dà với thời gian, tôi kiên nhẫn học, chăm chỉ cần cù nên đã thấy tiến bộ, thật là một điều đáng mừng. Ngàymãn khoá, tôi đã nhận được một cái chứng chỉ với lời phê quá tốt đẹp mà chính tôi cũng không ngờ; tôi đã rưng rưng nước mắt trước sự cảm động của Ban Giảng Huấn. Cũng nhờ đó mà tôi đã vượt qua được nhiều khó khăn khi đi xin việc làm nơi cái xứ nặng đầu óc kỳ thị này.

Ngày nay, dù tiếng Đức của tôi có khá hơn trước, nhưng cũng không làm sao giỏi hoàn toàn như lòng tôi mong ước! Ngôn ngữ là cả một lẽ sống, nhiều khi muốn diển tả hết tất cả ý nghĩ của mình nhưng không đủ từ nên cứ ấm ức trong lòng mãi. Ra đi muộn màng quá nên đành chấp nhận sự thua thiệt của cuộc đời mình vậy!

Nguyên Hạnh - HTD
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24404)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9382)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10984)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3612)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5316)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10480)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15026)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3476)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]