Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng rằng đã quên

27/08/201021:33(Xem: 3318)
Tưởng rằng đã quên
hoacucdon_1

Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức. 
 
Thời buổi nhiễu nhương, thực có những điều không thể lý giải được. Công ty anh làm việc tuyên bố phá sản, anh bị vu cáo dính vào một đường dây nào đó trong việc mua bán không hợp pháp và bị tịch thu tài sản, bị kết án năm năm tù. Ở trong tù, anh suy nghĩ lại mới thấy những cái phi lý của cuộc đời, mới nhận ra anh chỉ là nạn nhân của một sự tranh giành quyền lợi của những kẻ thế tục.

Sau năm năm, anh được phóng thích. Vào tù không có một bản án, ra tù không có gì hơn một tờ giấy phóng thích. Anh vội vã về với gia đình nhưng lúc đến căn nhà cũ ở thành phố thì anh mới hay là căn nhà đã thuộc chủ quyền người khác. Mẹ anh về ở với người em gái trong một căn nhà thuê ở ngoại ô. Chán nản, hoang mang và sôi sục những hận thù trong lòng, anh tìm về căn nhà cô em gái, thăm mẹ và em. 
 
Nhưng chỉ vài hôm sau, anh cảm thấy không thể nào tiếp tục ở trong cái thành phố đầy những kỷ niệm trộn lẫn với lừa đảo, hận thù này được. Và anh quyết định bỏ thành phố ra di với một mớ hành trang thu gọn, mặc cho mẹ và em gái năn nỉ, đến một tỉnh ở miền Nam và bắt đầu cuộc đời mới với hai bàn tay trắng.

Ở một nơi, dù không đến nỗi cách xa vạn dặm với chỗ cũ, và cũng tạm gọi là đất khách quê người, anh hùng hục làm việc, không từ bất cứ một thứ công việc nặng nhẹ nào, chỉ để qua thì giờ vàmong quên hết những thù hận lúc nào cũng như lửa cháy trong lòng. Khó thay. Anh thường ngủ với ác mộng, và đêm thì dài vô tận. Anh tự thấy mình là một con người đau khổ, và gặp bất kỳ ai quen biết, anh cũng kể lại cho họ nghe về nỗi hận thù oan ức của anh, những mong trút bớt cho ngừoi khác nỗi đau khổ của mình.

Một hôm anh đi ngang qua một ngôi chùa. Khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh làm anh cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái. Thỉnh thoảng có tiếng chuông vọng ra rồi tan dần trong cái tĩnh mịch của buổi chiều tà làm anh tưởng như đang lạc vào một thế giới khác, và trong phút chốc, anh tưởng như quên được những ám ảnh nặng nề trong lòng. Anh tản bộ vào điện thờ và trang nghiêm lễ Phật. Sau đó anh gặp vị hòa thượng trụ trì. 
 
Chuyện trò một lúc, anh lại thấy không thể không kể cho vị hòa thượng này nghe những nỗi khổ tâm của anh. Mỗi lần được thố lộ những khổ đau trong lòng, anh lại thấy được nhẹ nhàng phần nào. Hòa thượng trụ trì nghe anh nói hết tâm tư, rồi mời anh thường lui tới chùa đàm đạo, nghe kinh kệ và tham dự những buổi thuyết giảng về Phật pháp ở chùa, mục đích để có thể giúp anh quên bớt những hận thù đã trở thành một ám ảnh.

Từ đó, anh thường lui tới ngôi chùa trên, chuyên trò với hòa thượng trụ trì. Về sau, anh xin được ở lại chùa sau khi đi làm việc về. Dần dần, anh bỏ luôn công việc, xin hòa thượng xuống tóc quy y và trở thành một Ty-kheo, hàng ngày tụng kinh niệm Phật, nghe hòa thượng giảng kinh. Anh là một người thông minh nên hiểu và thuộc kinh một cách dễ dàng, và anh chuyên tâm tu hành, mục đích chỉ muốn được thân tâm an lạc, quên đi những thù hận dai dẳng. Mấy năm sau, anh được hòa thượng trụ trì cho thay ngài để thuyết giảng với Phật tử về Phật pháp.

Trong một lần nói về đề tài “Làm thế nào để quên thù hận”, ban đầu, anh thấy rất hứng khởi. Hôm đó anh đứng trên bục giảng trước hàng trăm Phật tử, bắt đầu nói về lòng từ bi, hỷ, xả…và thực tế nhất là anh đem trường hợp chính bản thân của mình để làm thí dụ. Anh thao thao bất tuyệt kể lại chuyện hơn mười năm trước, anh bị những nỗi oan khiên như thế nào…
 
Những hình ảnh ngày xưa như hiện rõ trước mắt. Ngực anh ngột ngạt, đôi mắt đỏ dần và giọng nói của anh bắt đầu sắt lại. Nỗi thù hận tràn ngập sống lại trong lòng, biến anh thành một người khác, dù anh đang mặc y phục của một nhà sư. Hội trường im phăng phắc, mọi người nhạc nhiên nín thở. May thay, vị hòa thượng xuất hiện như một vị cứu tinh. Ngài đến gần, vỗ vào vai anh nhè nhẹ và nói nhỏ: “Con hãy bình tâm lại”. Anh giật mình tỉnh lại, như vừa trở về từ một thế giới nào khác.

Tối hôm đó, anh ngồi sám hối với thiền sư trụ trì gần như suốt đêm và anh thấy công phu hàm dưỡng của anh chưa đến đâu. Anh muốn từ giã ngôi chùa mà anh cho là vẫn chưa giúp đỡ được gì anh trong việc tu tập. thiền sư nhìn anh thương xót và hỏi: “Con chỉ luôn luôn nhớ đến những khổ đau người khác tạo ra cho con, thế có bao giờ con nghĩ đến một chút hạnh phúc của một người nào đã đem lại cho con chưa?”. 
 
Anh trả lời: “Chưa có ai đem hạnh phúc đến cho con cả”. Thiền sư cười: “Nếu thế thì trước tiên con nên oán hận mẹ con, là người đã đem con đến với cuộc đời đau khổ này. Từ lúc sinh ra con đến nay, bà không sống với con được bao lâu, và con cũng chưa làm một điều gì để trả hiếu cho mẹ. Nếu con không bao giờ có thể quên những thù hận trong lòng thì ta e sẽ có ngày con sẽ thù hận chính con vì con đã quên mất người thân yêu nhất trong đời con mà chưa có một chút gì gọi là báo đáp. Ngày mai con có thể rời chùa, và đi đâu, tự mình con lựa chọn”.

Anh ngồi yên suy nghĩ và bỗng nhiên anh nghĩ đến mẹ anh. Phải rồi, anh đã lớn lên trong vòng tay của mẹ, nhưng khi vừa lập nghiệp, thành công trong cuộc sống, tính ra anh chưa ở với mẹ anh được bao lâu cho đến khi bị tù tội. Hận thù làm anh quên mất mẹ, bây giờ ngồi nhớ lại, đúng là anh chỉ là đứa con vừa vô dụng, vừa bất hiếu. Một thời gian dài tù tội rồi xa xứ, anh chưa làm được một điều gì để cho mẹ được vui lòng, mà chỉ nghĩ đến những thù hận ăn sâu trong tâm khảm. 
 
Bây giờ anh chẳng biết mẹ anh già như thế nào và sức khỏe ra sao. Bất giác anh rùng mình. Quả là anh đã từng có hạnh phúc; và anh chỉ mất hạnh phúc khi anh rời xa mẹ. Khi anh bị hàm oan, người mẹ đã từng hết lòng mang lại hạnh phúc cho anh thì anh chưa bao giờ nghĩ tới, chỉ vì anh bận tâm với những oán hờn. 
 
Bấy lâu nay, những hận thù đã tiêu hủy cuộc đời của anh, đã làm cho anh sống không khác gì một xác chết. Anh chẳng làm được một điều gì ích lợi cho bản thân và gia dình. Nghĩ đến mẹ, anh chợt ý thức được bốn chữ “bản lai diện mục” và nhận ra rằng, mẹ là chỗ để quay về. Trong phút chốc, những oán thù trong lòng anh tiêu tan. Anh quỳ xuống lạy vị thiền sư xin sám hối. 
 
Vị thiền sư chỉ cười nhân ái và nói: “lâu nay thầy không bao giờ nhắc đến điều đó với con, vì thầy nghĩ chưa đến lúc. Bây giờ con đã ngộ ra được, thì không cần phải ở đây, con cũng sẽ được thanh thản. Có những điều cần nên quên đi để cuộc sống có ý nghĩa, nếu những điều đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống hiện tại của con. Đi đi, hãy trở về với gia đình và bất cứ lúc nào trở lại đây, nếu còn duyên, thầy sẵn sàng chờ đợi con”.

Anh bạn tôi từ giã vị thiền sư, trở về nơi chốn cũ. Ít lâu sau, vị thiền sư nhận được một lá thư ngắn: “Bạch Thầy, con đã về với gia đình. Cuộc sống luôn luôn có những khó khăn, nhưng con tâm nguyện sống thế nào cho thật tử tế theo lời Thầy dạy để được thân tâm an lạc”.

Câu chuyện chỉ đến đó vì tôi chưa bao giờ gặp lại sau khi anh ấy rời chùa.

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 162
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2021(Xem: 3999)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
08/11/2021(Xem: 11441)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 13178)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6703)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4698)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2526)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3755)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2671)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6573)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 8936)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]