Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa trong vườn nhà

11/08/201809:29(Xem: 11997)
Hoa trong vườn nhà
Hoa trong vườn nhà
Chu Trm Nguyên Minh
 Nguyn Tùng Vân
 

 

 

 

 

 

Về Nha Trang, những người yêu văn chương chữ nghĩa, thập niên 60 đều biết và nghĩ về một gia đình có đến hơn một nửa thành viên hoạt động văn học nghệ thuật, một gia đình đặc biệt hiếm có ở Việt Nam .

Tôi xin được trân trọng viết về hai người thuộc hai thế hệ văn học của gia đình này.

 

Bắt đầu là:

 

1.

Nhà thơ TÂM TẤN

 Nu Si Tam Tan1 (1)

 

 

Bà sinh năm 1921 tại Đà Nẵng. Làm thơ năm 14 tuổi. Năm 1937, lúc bà 16 tuổi đã có thơ trên báo Tam Bảo. Và từ đó, bà xuất hiện: Trong Khuê Phòng, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Đàn Bà, Liên Hoa, Tự Do, Tiếng Dội, Giác Ngộ…

Bút hiệu khác: Trinh Tiên, Trinh Nữ. Khi viết tùy bút, xã luận, bà ký: Lan Xuân, Diễm Bút.

Bà là bạn của: Phạm Huy Thông, Yến Lan, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên. Và là nghĩa muội của cố thi sĩ Quách Tấn.

Bà đại diện miền Trung, nữ sĩ Thụy An miền Bắc, và Mộng Tuyết miền Nam, kết nghĩa thành ba chị em văn nghệ đại diện ba miền.

Tác phẩm đã in:

Tình Thơ [1944 - in chung với phu quân, nhà văn Bửu    

                                                                     Đáo Ái Mỹ]

Hương Đạo Hạnh [1974]

Cuộc Đời Lọc Những Tinh Sương [2004]

Muôn Vàn Hương Sắc [2012]

Có mặt trong tác phẩm :

Hương Bình Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thước [1962]

Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam từ thế kỷ 19-20 của Huỳnh Sanh Thông {1996}

Nữ Sĩ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Hiền [2005]

Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang.

Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến…

Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.

Bà ở vào thời Văn Học Lãng Mạn [1930-1945] những nhà thơ thuộc nhóm Dạ Đài, và nhóm Xuân Thu Nhã Tập, đã làm một luồng gió mới trong thơ, thơ dần thoát khỏi quan điểm “Thi Dĩ Ngôn Chí” hay ít ra chữ “Chí” mang một nghĩa sâu hơn và nhiều mặt hơn. Nó mang theo cả triết lý sống, đôi khi cũng ẩn dụ và viễn tưởng.

Thơ của Bà không thoát khỏi qui luật đó, chí ít cũng ở thời lãng mạn. Về sau, những thập niên 50-70 thi ca muốn thoát hẳn cái cũ, cái qui luật ràng buộc, gò bó… bắt thơ phải tuân thủ. Thơ phá cách, phá thể, thơ tự do bắt đầu xuất hiện nhiều, nhưng ở bà vẫn giữ được cái trầm lắng, nhẹ nhàng của thơ thời lãng mạn. Vần điệu và ý tưởng vẫn là chủ đạo trong thơ của bà.

Bà viết nhiều về tình yêu Nam – Nữ, lứa đôi, tình phụ mẫu, tình phu thê nhưng không thiếu những khắc khoải của phận người, những trăn trở suy tư cho thế sự. Về sau bà thiên về Phật giáo. Ngoài thơ bà còn viết tùy bút, xã luận.

Với dự định viết về thơ ca của bà, thú thật tôi đã run tay, kẻ hậu sinh như tôi không thể nào nhìn thấu suốt được nỗi lòng của bà đã gởi gắm trong thơ, cho mình, cho đời, cho nhân sinh.

Vả lại, thơ tự nó đã nói lên và giãi bày, tự nó xác nhận chỗ đứng, nơi hiện diện. Tự nó minh chứng sự có mặt trước người đọc.

Và vì lẽ đó, tôi xin được trích giới thiệu hai bài thơ, bà viết cách nhau 47 năm: -Một Cái Siết Tay- bài thứ nhất bà viết ở Nha Trang 1/1940, nói về những cảm xúc ban đầu khi gặp và yêu nhà văn B.Đ. Ái Mỹ. Đó, như một thông điệp của định mệnh.

Ở thủa ban đầu yêu nhau, trong thi ca thường là “nắm tay”, “cầm tay”, ít hay không thấy thi sĩ nào sử dụng từ “siết tay” như bà.

Cầm, Nắm, Nâng ..tay em .. tay của Nam –Nữ yêu nhau ở thủa ban đầu, đó là kỷ niệm theo suốt cuộc tình dài trăm năm, một cảm xúc hóa thành thanh âm vang mãi trong trái tim của hai người. Đó là sự va chạm truyền cảm tinh khôi và trinh khiết. Đó là sự bắt đầu của tình yêu và định mệnh …nhưng “siết tay” thì còn hơn thế, đó là lời thệ ước.

Xin hãy lắng lòng:

 

Một Cái Siết Tay

 

Vạn lời yêu dâng đầy trên bốn mắt

Muôn mê say run rẩy ở đôi môi

Trời! Chiều nay vũ trụ ở đâu rồi

Không thấy nữa khi đôi tay siết chặt

Vô hình chưa! Trong bốn làn tia mắt

Hồn anh sang quấn quít chạm hồn em

Run làm sao! Cảm giác rúng đôi tim

Trong cái siết của đôi bàn tay nóng

Em thu náo nức với niềm say

Thu cả tình đêm lẫn mộng ngày

Thu vạn nghìn lời âu yếm nữa

Cả tình sôi nổi xuống bàn tay

Em siết tay anh chuyền cảm giác

Những lời âu yếm rúng trên môi

Những lời náo nức trong tim thắm

Em gởi tay anh cả vạn lời.

 

46 năm sau bài thơ đầu, bà viết bài thứ hai -Hai Lần Siết Tay – cũng tại Nha Trang đầu năm 1967, khi phu quân nhắm mắt lìa đời. Cuộc tình từ cái siết tay đầu tiên đến 47 năm sau luôn là cuộc tình đẹp, đẹp mãi dù thời gian cứ trôi … Hai tráí tim hòa điệu, biết cùng nhận đắng cay của cuộc đời, cùng vượt nỗi gian nan …và biết cùng nhau giữ mãi lửa tình yêu ban đầu …Phu quân của bà - nhà văn B.Đ Ái Mỹ - bị tai biến liệt bên phải, chỉ còn bàn tay bên trái “ông dùng bàn tay trái níu tay người bạn đời, siết chặt” và “bình thản nhìn bà rồi lẳng lặng đi vào giấc hôn mê”.[1] Lần Tay Siết này là tiếng gào thét đớn đau ẩn khuất trong trái tim để trở thành nỗi tiếc thương khôn cùng. Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái [2] bà nuốt nỗi đau ly biệt vào lòng.

Rõ ràng lời thơ, cũng như bà, cũng nuốt đi niềm đau vào thanh âm khổ hạnh của kiếp người. Không còn cái “động”, cái háo hức của cái siết tay lần đầu…mà chỉ là cơn mê trong cái “Tỉnh”, cái trầm mặc. Tất cả trở thành một dòng khổ đau giấu kín nơi cõi lòng. Bà đã trải, đã sống, đã yêu và đã chín trong tư duy và trong cách thể hiện.

Hãy cảm xúc và chia sẻ:

 

Hai Lần Siết Tay

 

Từ cái siết tay ban đầu mở lối

Vườn duyên tình thắm thiết tuổi đôi mươi

Buổi cảm giao không thốt được nên lời

Tay chỉ nắm trong tay lời ước thệ

Chừ tay ấy bỗng nhiên thành tàn phế

Lời mong trao, môi khó chuyển nên lời

Bốn sáu năm từng chung khổ chia vui

Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái

Người đã khuất…đẹp ân tình lưu lại

Tóc màu sương vẫn quí gọi “giai nhân”

Nửa trăm năm như ngọc chuộng vàng nâng

Anh trang trọng giữa hai lần tay siết

Trọn một kiếp song đôi, chừ đoạn diệt

Vắt áo trần nhơ, giả hợp hình hài

Trời Lăng Nghiêm hay sắc giới Thiên Thai

Cầu linh phách nhẹ nương vào Bát Nhã.

 

Thơ của bà là cung đàn, nhưng không phải vang lên từ dây đàn mà từ nước mắt và máu của con tim.

Những dòng trên không phải “nhận đinh” hay “phê bình” mà là những lời chân thành của kẻ hậu sinh chiêm ngưỡng bà và chiêm nghiệm thi ca của bà..

 

[1] chú thích của các con

[2]trích Hai lần Tay Siết

 

*

 

2.

Nhà thơ THANH NHUNG

Cuối thập niên 50, chuyện có thơ được đăng ở tạp chí Phổ Thông, lại thêm có mặt trong hai tập thơ chung cùng một năm. Đó như một hiện tượng và Thanh Nhung đã trở thành nữ sĩ, rất trẻ được ngưỡng mộ. Với tính cách đó, sau hơn nửa thế kỷ, tôi nhìn lại.

 
thanh nhung

Bà sinh năm 1941 tại Nha Trang và nơi sinh cũng là tên: Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang. Bút hiệu: Thanh Nhung.

Bà là con cả của nữ thi sĩ Tâm Tấn và nhà văn B.Đ Ái Mỹ, thuộc dòng dõi vua Minh Mạng và thi hào Tuy Lý Vương.

Theo học Võ Tánh Nha Trang, Quốc Học Huế, Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

1963 – Du học Nhật, Mỹ. Năm 1973 lấy bằng Tiến Sĩ Đại Học California ở Berkeley với luận án: Vai Trò Truyền Thống của Phụ Nữ phản ánh trong văn học truyền khẩu và văn chương viết của Việt Nam.

Bà nói được 5 thứ tiếng, chu du 20 quốc gia, Giáo sư Đại Học của 4 nước: Malaysia, Mỹ, Nhật và Thái Lan.

 

Về sự nghiệp thi ca:

Năm 1958, Bà có thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bông Lúa rồi Phổ Thông của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ. Cùng năm này bà có mặt trong hai tập “Tiếng Thơ Miền Trung” với Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng ….và “Hoa Mười Phương” với Định Giang …Lúc đó bà mới 17 tuổi. Bà có thơ đăng thường xuyên ở Phổ Thông đến 1965. Những thập niên sau bà cộng tác với các báo và tạp chí nước ngoài như: Văn Học và Nghệ Thuật, Văn Học,Vietnam Culture Journal …và đã xuất bản một số sách viết bằng tiếng Anh trong đó có bộ tiểu thuyết 2 tập The Moon of Hòa Bình [1994] đồng tác giả với chồng là : William L.Pensinger.

Bà hiện sống cùng chồng ở Nha Trang .

 

Ở đây tôi xin nói -một chút- về thi ca mà không nói đến tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Việt hay tiếng Anh của bà. Gia tài thi ca của bà không nhiều, không đồ sộ, không nhiều đầu sách, nhiều trang in….Nó chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ đủ các thể loại bà viết từ 1958 đến 2000. Như một bức tranh khung nhỏ, khiêm nhường, được gắn ở khoảng không gian tĩnh lặng, lẻ loi, trong một thế giới trưng bày hoành tráng của thi ca đương đại, nhưng bước chân người thưởng ngoạn lại dừng lại -rất lâu- trước bức tranh khung nhỏ, lẻ loi ấy của bà.

Tôi vẫn không làm sao tìm được những sáng tác sau năm 2000 của bà .

Năm 1963 bà du học ở Nhật. Thời đó đi du học là chuyện cực hiếm, nó càng hiếm hơn khi dành cho giới nữ. Lúc đó bà 22 tuổi, một cánh chim non tung cánh vào bão táp của cuộc đời. Cuộc ra đi này, theo tôi, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca và cả cuộc đời của bà. Cuộc ra đi dài cho đến gần hết cuộc đời bà mới có cuộc -thật sự- trở về.

Đó là cuộc chia tay mà cuộc đời đã dành cho bà, như một định mệnh.

 

Về hình thức thể hiện:

Bà sử dụng hầu như hết các thể thơ: 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ chia đoạn, 4 chữ, lục bát, thể kết hợp và tự do…xuyên suốt trong quá trình sáng tác của bà. Đặc biệt là Thể Kết Hợp. Thoạt nhìn ta có thể lầm tưởng đó là thơ tự do, nhưng không, bài thơ tuân thủ qui tắc vần, ngữ pháp, ngữ nghĩa của từng thể thơ, nhưng không độc lập, riêng rẽ mà liên kết lại thống nhất âm điệu và ý tưởng. Có ít tác giả sử dụng thể kết hợp thành công như bà. Tôi xin đơn cử:

 

Chắp tay van gió nằm im

Đừng đưa vẳng mấy lời chim gọi đàn

Tiếng hồn vừa mở

Tiếng hồn than van

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại trong “Hoa Mười Phương”-1959]

 

Ba thể: lục bát, 4 chữ, 7 chữ trong một bài. Vần “an ‘ –câu 2: gọi đàn –câu 4: than van -câu 6: vội vàng. Đó là sợi dây kết nối, thống nhất của 3 thể loại trong một bài thơ. Không khó nhưng cũng không dễ để hình thành thanh âm xuyên suốt như vậy.

 

Về nội dung:

Người đọc không khó để nhận ra rằng, sáng tác của bà có hai thời kỳ, rất rõ, rất tách bạch .Thời kỳ đầu, từ trước 1958 đến tháng 4 năm 1963 Trong thời kỳ này bà còn chịu ảnh hưởng nhiều của thi ca lãng mạn [1932-1945,] về hình thức lẫn nội dung. Thơ chỉ nói đến cái tôi của chính mình, sự ích kỷ cần thiết cho giai đoạn mở đầu của một tác giả, viết về những cảm xúc rung động của mình và cho mình. Viết cái ở trong và riêng ta. Gần như hầu hết các nhà thơ khởi viết đều viết về tình yêu của chính mình, bà cũng không ngoại lệ. Dường như bà biết yêu rất sớm:

 

Tóc mây hò hẹn tuổi mười lăm

Mắt-đọng-sầu–tư vẫn khóc thầm.

 

Và cái bóng dáng tình yêu ban đầu ấy cứ lớn theo thòi gian, chập chờn rồi choáng ngợp trái tim, thi ca của bà bị cuốn theo. Mộng mơ. Hạnh phúc. Khổ đau. Giận hờn. Oán trách. Nỗi rung động và xúc động đầu đời bậc lên thành cung điệu, thành thơ. Nhưng, dù trong nỗi đau nào, cũng giữ được sự đằm thắm, dịu dàng, không phẫn nộ, không lộng từ…đúng như tâm hồn tĩnh lặng, sâu lắng của bà.

 

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại /Hoa Mười Phương, 1959]

 

Hai vỡ tan còn ghi kỷ niệm

Tình Yêu? Còn lại chút gì đâu

Ngày mai khi khép hoài đôi mắt

Ôm lấy niềm đơn xuống huyệt đài

[trích Kiếp Sầu/Sài Gòn 12/9/1961 ]

 

Ngăn-cách-cuộc-đời xâu xé hồn nhau

Sầu đã biến dòng thơ thành suối lệ

[trích Những Mùa Xuân – Sài Gòn 29/12/1961]

 

Bà thể hiện sự đau khổ tận cùng, tiếng thơ cũng chỉ là nổi khứng chịu số phận của riêng mình:

 

Xác thân vùi với niềm đau khổ

Là hết, là xong một cuộc đời

……….

Tỉnh giấc, trời ơi, hồn ngẩn ngơ

………….

Người xa - thương nhớ là dao chém

Từng nhát vào tim ứ tủi hờn

[trích Oán Trách /Phổ Thông số 88-9/1962]

 

Những cảm xúc, bâng khuâng, tò mò khám phá. Của đợi chờ mộng mơ. Của hạnh phúc ban đầu. Thời của tan vỡ, tiếc nuối, đau buồn, thơ của bà bấy giờ vẫn mang một sắc thái riêng: óng mượt và lung linh.

 

Thời kỳ từ 4/1963 trở về sau:

Cuộc chiến chống Pháp kết thúc 20/ 7/1954. Nhưng cuộc chiến ác liệt vẫn tiếp tục ở quê nhả. Trái tim nhỏ bé của bà, ở cách xa vạn dặm, qua một đại dương bao la, mãi tận phương trời …đã nghe và đã thổn thức. Bà bỗng ngộ ra rằng bấy lâu nay bà chìm đắm trong nỗi riêng của cõi lòng, của riêng bà, rất đỗi vị kỷ. Tâm sự đó bà gởi vào “Hướng Tâm Tư “ viết tại Tokyo ngày 25/4/1963.

 

Ôi những ngày xưa rất dại khờ

Tháng năm quằn quại khổ vì mơ

…………….

Một sớm niềm kiêu hãnh hiện về

Mang linh hồn khỏi ngục đa mê

Điềm nhiên dứt bỏ thời hoang dại

Có những lời thơ rất não nề

 

Cuối cùng, như một cánh bướm thoát ra khỏi kén, tung bay vào không gian, thơ bà đã mang thêm một ý nghĩa về cuộc chung của kiếp người. Bà dấn thêm một bước vào cảm xúc về nỗi khổ đau của đất nước, của quê hương, của đồng bào, và bà hạnh phúc với sự chuyển hướng này.

 

Hồn nở tình thương đẹp lạ lùng

Trao về linh khí của non sông.

Hạnh phúc trào dâng đến nghẹn lời

Nghe lòng chuyển hướng rộng chơi vơi

[trích Hướng Tâm TưTokyo 25/4/1963]

 

Thi ca của bà lúc này có thêm một mảng thi ca dấn thân, chất đấu tranh ẩn khuất trong những thương cảm, lo âu. Từ nơi xa xôi gởi về quê nhà. Nỗi lòng bà đã trải ra, tấm lòng bà đã xót thương, nước mắt bà đã rơi. Thơ của bà giờ đây đã mang tính chiến đấu, hy sinh và cống hiến cho quê hương hơn cái tôi của mình.

 

Xót xa nghe chuyện điêu tàn

Hỡi ơi! quê mẹ muôn vàn thương đau

[trích Khắc Khoải – Tokyo 29/91963]

Lòng đất quê hương quặn niềm ly tán

Cho nỗi hờn câm ngùn ngụt tinh cầu

……………….

Đất mẹ rưng rưng ôm những hình hài

[trích U Uất, Phổ Thông số 137, 11/1964]

 

Trái tim nhỏ bé, côi quạnh ở mãi phương trời xa tắp, đã nghe –không những tiếng bom rền đạn nổ, tiếng gào thét của quê hương. Bà còn nghe cả tiếng nỉ non, khấn nguyện, thầm thì của những người mẹ, tiếng khóc của trẻ thơ…

 

Nghe từ mẫu đêm nhìn đèn tâm sự

Hai tay gầy và mắt lệ xin ơn.

Cho hơi ấm của mùa xuân ấp ủ

Tình thương yêu làm nhẹ mối căm hờn

[trích Mùa Xuân Mong Đợi – Berkeley 11/11/1968 ]

 

Thời kỳ này, cảm xúc dâng trào choáng ngợp, đè nén và bộc phát thành thơ, nó phá vỡ hết qui tắc, niêm luật, gò bó của thơ lãng mạn, thơ mới. Bà vượt qua, thoát khỏi và hầu hết tác phẩm thời kỳ này bà viết theo thể thơ Tự Do. Từ cái phóng khoáng, thênh thang, cái cởi mở của thơ tự do, người viết mới viết hết ý tưởng của mình muốn gởi gắm. Tuy nhiên “vần” vẫn được bà sử dụng như cách tạo âm, thơ bà vẫn mang tính nhạc điệu, tôi nghĩ, bà đã áp đặt tu-từ-mới cho thơ tự do.

 

Mẹ già không nhặt xác con

Đem xây nền dân chủ

Những xác co ro trong đất mẹ hao mòn

Nỗi khao khát âm thầm thôi có bao giờ tự thú

[trích Xin Cúi Xuống Thật GầnKuala Lumpur , 20/1/1975]

 

Có người nói thơ “là cấu trúc của trí tưởng tượng” tôi hiểu đại để là “trí tưởng tượng có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ”. Nó có thể đúng ở một “diện” nào đó của một giai đoạn. Tuyệt nhiên nó không phù hợp với thơ của bà trong thời kỳ này.Cái cảm xúc có thật và có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ. Tiếng động của âm thanh, của súng đạn, của xương máu, đó là sự hiện-hữu-có-thật…làm nên cảm xúc, bà mới viết thành thơ. Thơ gần như hoàn toàn không cần và vượt khỏi trí tưởng tượng.

Và thơ của bà giai đoạn này là “Thơ, đó là những cách đi tới nơi tận cùng của ý thức” [Laurence folinghetti –nhóm nhà thơ-Không Tùy Thời-1950 Hoa Kỳ ] và “Ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống “[Luân Hoán]. Tôi nghĩ như vậy.

Bà cũng như người mẹ -nữ sĩ Tâm Tấn- hội đủ: Tài Năng, Đức Hạnh và Thanh Sắc.

 

Ngày về

Ra đi ở tuổi 22, phải gần hết cuộc đời bà mới -thật sự- trở về. Căn nhà nơi bà sinh ra giờ đây mái đã rêu phong, vòm bông giấy trước nhà đã không còn, tiếng cười cũng vắng xa. Đàn em, mỗi nguời một phận, tứ tán khắp phương trời. Chốn cũ, nay chỉ còn hình bóng lẻ loi, đơn độc, âm thầm của mẹ già. Và, ôi những dấu chân ngày nào đã in trên bờ cát trắng của thuở lên mười, gói đậu phụng rang gởi trọn nỗi lòng của ai đã trao thời niên thiếu….cùng với tiếng sóng của biển khơi thì thầm…của một thời đã xa...rất xa.

Thời gian có thể đã xóa mất đi biết bao điều của đời người nhưng tôi đoan chắc rằng những kỷ niệm kia còn mãi nơi cõi lòng bà, ngày nào bà còn nghe tiếng sóng thì thầm, còn nhìn thấy biển quê hương.

 

Chu Trầm Nguyên Minh và Nguyễn Tùng Vân

Sài Gòn 1/2013
http://www.luanhoan.net/gocchung2013/html/bm%205-4-13%2015.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2018(Xem: 8644)
Ở đời có những người không đức lại tự cho rằng quá nhiều đức; không tài lại nghĩ mình kỳ tài không ai bằng; làm lợi ích cho người không được bao nhiêu mà nghĩ mình làm quá nhiều; thành tựu không lớn mà nghĩ là thành tựu chưa từng thấy… là bởi “cái tôi” quá lớn. Cái tôi (the Self, the Ego) ấy vượt khỏi giới hạn của thân xác, đóng cọc cắm rào khắp nơi nào nó hướng đến. Nó vô hình nhưng lại mượn cái hữu hình để tự thể hiện sự hiện hữu của nó. Và sự hiện hữu theo cách thế bành trướng, lấn lướt của một cái tôi lớn, làm cho không gian chung quanh chật chội, tù túng. Ngay cả môi trường sống của gia đình, trường học, làng xóm, tổ chức tôn giáo, quốc gia, cho đến thế giới, trước sự hung hăng hãnh tiến, tự tin, tự mãn của một “cái tôi đáng ghét,” (1) sẽ bị ô nhiễm, khó thở. Cái tôi ấy nếu là người bình thường thì chỉ gây khó chịu, hoặc làm trò cười cho hàng thức giả trong vài phút giây; còn như cố gắng giành lấy trách nhiệm lãnh đạo tập thể nữa thì mới là hiểm họa cho nhiều người, trong một
08/02/2018(Xem: 7557)
Ta lỗi hẹn rồi với Huế xưa Với chiều phai nắng, với cơn mưa Với đường hoa xứ hương thoang thoảng... Có lẽ.. hồn quê vẫn đợi chờ ?
08/02/2018(Xem: 8571)
Hỏi: Thế nào là tâm bị ô nhiễm ? Đáp: Tâm gồm hai phần chính là tâm và sở hữu tâm (tâm sở). Sự thấy biết cảnh thuần khiết gọi là tâm. Sự pha màu vào thấy biết cảnh thuần khiết làm nó biến dạng gọi là tâm sở. Cả hai tâm này đồng sinh, đồng diệt, đồng cảnh, đồng trú căn. Cho nên rất khó biết được tâm (thuần khiết) mà chỉ biết được tâm sở. (Tâm sở là tâm nhận diện cảnh theo chức năng riêng của nó, như tâm sở Tham có chức năng là khao khát cảnh, tâm sở Sân có chức năng huỷ diệt cảnh). Giống như đường hoà vào nước, người uống chỉ biết vị ngọt của đường mà không thế biết sự không vị của nước tinh khiết trong nước đường. Nước bản chất là H2O, nếu lẫn cặn thì gọi là nước đục, lọc cặn đi gọi là nước trong, nhưng bản chất nước là nước, không trong, không đục. Tâm cũng như vậy. Vì lẫn vào sự khao khát, ham muốn cảnh của tâm sở Tham nên gọi là Tâm Tham nên chẳng ai còn biết đến Tâm nữa, chỉ bị thu hút bởi Tham tâm sở mà thôi.
08/02/2018(Xem: 4462)
Nhân dịp qua Houston dự Đại hội Phượng Vỹ, một chị bạn đã rủ tôi về Florida chơi cho biết. Nghe đến Florida tôi đã hình dung ra một miền nắng ấm, cây cỏ xanh tươi và sóng biển rì rào như mời gọi khách phương xa. Mà thật vậy, con đường từ phi trường về nhà chị đã quá quyến rũ du khách bởi những hàng cây, những thảm cỏ xanh um, trải dài ra tận chân trời. Bước xuống nhà chị, tôi bàng hoàng vì phong cảnh quá đẹp, trước nhà là một bãi cỏ mượt như nhung với những hàng cây cọ cao thẳng tắp, đẹp như trong tranh vẽ làm tôi cứ đứng ngẩn ngơ như người từ trên rừng thượng du về. Đứng trước cổng nhà, tôi đã reo lên: - A! bông cẩn Huế đây! Thanh thanh năm cánh mỏng uốn cong về phía sau làm bông hoa như cái lồng đèn tròn nhỏ, ôm lấy dây nhụy vươn dài có những hạt phấn nhỏ li ti màu vàng; khác với bông cẩn tây, hoa lớn hơn, dày, nhiều cánh xoắn xít lấy nhau, tràn sức sống mà thiếu nét mềm mại, ẻo lã... rất Huế.
02/02/2018(Xem: 14339)
Báo Chánh Phap - số 75 - Giai Phẩm Xuân Mậu Tuất 2018
29/01/2018(Xem: 4870)
Quan hệ gắn bó Nghệ An – Quảng Nam không chỉ thể hiện ở mặt Văn học mà còn để lại những dấu ấn sâu sắc nơi Võ học. Bên cạnh các thầy Đồ Nghệ dày công vun đắp cho văn học Quảng Nam phát triển rực rỡ còn có các võ sư xứ Nghệ đã giúp cho nền võ học Quảng Nam trở nên lừng lẫy một thời với các võ sĩ “bất khả chiến bại” trên võ đài và đóng góp nhiều vào sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc.
27/01/2018(Xem: 4018)
Tác phẩm “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường” chỉ dài khoảng 360 trang, nhưng chứa đựng rất nhiều tâm lực – đó là những suy nghĩ của tác giả Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) từ nhiều năm đứng dạy trong trường học Hoa Kỳ và nhiều thập niên hoạt động trong cương vị Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử. Đó cũng là những chiều dài địa lý, qua những đại dương trên địa cầu, những nơi tác giả đã đi thật xa trên đường tìm học Thiền và rồi cũng đi thật xa trên đường hoằng pháp. Nói như người xưa là, cuốn sách quý độc giả đang cầm trên tay đã được viết từ người cư sĩ đã đi mòn biết bao nhiêu đôi giày và đã ngồi mòn biết bao nhiêu bồ đoàn để thâm nhập Phật pháp, và rồi hoằng pháp.
20/01/2018(Xem: 5106)
Ngày nay trái đất đã thu hẹp lại, đó là nhờ phương tiện di chuyển và phương tiện thông tin. Người ở bên này trái đất có thể rất gần gũi với người ở bên kia trái đất, giống như hai người kề cận nói chuyện với nhau, như cùng một nhà hay hàng xóm láng giềng. Cho nên quan niệm xa-gần chỉ là tương đối. Ngày xưa mẹ tiễn con, em tiễn chị lấy chồng ở bên kia sông (sang ngang) coi như “nghìn trùng xa cách” với những câu ca dao nghe đứt ruột: Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Ngày nay câu ca dao “gả chồng xa” được các màn hài kịch/chọc cười sửa lại rất vui và rất thấm thía như sau: Mẹ ơi đừng gả con xa. Gả con đi Mỹ, Con gửi đô-la mẹ xài. Xin nhớ Việt Nam cách Mỹ 19 giờ bay của máy bay phản lực, chứ không phải là chuyến đò qua bên kia sông. Như vậy tiền bạc và tình cảm đã làm cho xa thành gần và gần thành xa mà Phật Giáo cho rằng mọi chuyện trên cõi đời nay do Tâm mình tạo ra “Nhất thiết duy tâm tạo”. Cho nên mặc dù ở xa vạn dặm, chưa một lần gặp mặt, Thượn
19/01/2018(Xem: 3689)
Hôm nay, tôi hân hạnh được Hội Đồng Giám Khảo Giải Viết Về Đạo Phật của Viet Ananda Foundation ủy thác nói vài lời. Bản thân tôi không có gì đặc biệt, chỉ do cơ duyên trong 3 thập niên gắn bó với báo chí trong đạo và ngoài đời thường, và là một người luôn luôn hối thúc các bạn đạo phải tu, phải học, và phải cầm bút viết. Bởi vì, tôi thường nói với bạn hữu rằng hãy hình dung, nếu nhiều thập niên trước, không có sách của quý Thầy như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ, Thích Minh Châu và nhiều vị khác, Đạo Phật bây giờ đã không phong phú như hiện nay.
17/01/2018(Xem: 3863)
Lễ Trao Giải Viết Về đạo Phật Ananda Viet Awards Lần Đầu, 3 Giải Chính, 5 Giải Khuyến Khích Tổng Trị Giá Các Giải Là 7000 MK
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]