Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân duyên Học Phật

04/11/202207:27(Xem: 2275)
Nhân duyên Học Phật
vesak 2022-1,


Nhân duyên Học Phật

Phương Quỳnh (Diệu Thiện)


Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam

hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”

 

Ngẫm lại mình, tôi lại tiếc nuối mình đã đến với đạo Phật quá trễ! Tôi sinh ra trong một gia đình thương mãi, cha tôi mất sớm trong thời kỳ chống Pháp, mẹ tôi là sage femme từ thời Pháp cho mãi đến sau này. Tôi là chị cả của 6 đứa em, nên trách nhiệm tinh thần và chăm sóc các em cũng khá nặng. Tôi vừa đi học vừa phải phụ giúp gia đình, không có nhiều thì giờ rảnh, nên cũng ít có dịp đến chùa chứ đừng nói đến việc quy y làm con Phật. Mãi đến năm 1980, tôi cho đứa con trai đầu 10 tuổi đi vượt biên với gia đình người cô ruột. Sau khi gởi con đi rồi, tôi vô cùng lo âu vì con còn quá nhỏ, không biết sống chết thế nào trên đại dương, có đến được bến bờ bình an hay không? Lòng nhiều bất an, mỏi mòn trông đợi tin con, mất ăn mất ngủ, nên dần dà tôi phát bệnh nặng, chỉ một muỗng nước cam cũng không uống được chứ đừng nói đến chuyện ăn gì… Đi khám nhiều bác sĩ, uống nhiều loại thuốc. Thuốc Tây thuốc Nam đủ loại nhưng bệnh cũng chẳng thuyên giảm! May mắn thay có vài người bạn khuyên tôi nên tìm đến chùa Linh Quang ở Khánh Hội do Hòa Thượng Từ Quang trụ trì để xin Thầy trị bệnh cho. Nghe nói Thầy rất giỏi, đã cứu được rất nhiều người bệnh. Bệnh tôi chạy chữa đủ nơi nhưng không thuyên giảm, nên theo lời chỉ dẫn của bạn tìm đến cửa Phật.

 

Vừa mới vào chùa, tôi muốn quỳ đảnh lễ Thầy, Thầy liền ra hiệu cho người nhà dìu tôi ngồi trên ghế đối diện. Trước đôi mắt tinh anh, uy nghi nhưng lộ vẻ hiền từ đôn hậu của Thầy, tôi trình bày hết mọi nguồn cơn và xin Thầy chữa cho tôi khỏi bệnh. Với giọng trầm ấm, Thầy nhìn tôi dịu dàng nói: “Thầy thấy con chẳng có bệnh gì trầm kha cả! Chỉ vì con quá lo lắng, bất an, mất ngủ, không ăn... Việc gì đến thì nó sẽ đến, việc gì đi thì tự nó sẽ qua đi! Cứ để cho nó tự nhiên, đừng quan tâm, đừng lo nghĩ gì cả.”

 

Trong không khí trang nghiêm của chánh điện sáng rực nét từ hòa của Đức Phật và những lời khuyên nhủ dịu dàng của Thầy, tôi cầu khẩn và được Thầy đồng ý làm phép quy y cho tôi. Tôi lặp lại theo Thầy 5 điều giới luật: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đã thệ nguyện rồi, thì suốt đời phải giữ giới, phải làm điều lành, tránh làm việc ác... Diệu Thiện là pháp danh Thầy ban cho tôi. Như vậy tôi chính thức được làm con Phật từ tuổi 36, lòng thầm niệm ơn Thầy Từ Quang là Thầy Bổn Sư của tôi. Trước khi ra về Thầy còn ân cần nhắc lại: “Con nhớ hằng ngày thành tâm cầu nguyện Chư Phật, chư Bồ Tát nghe con…!”

 

Dù vậy, hầu như tôi cũng chưa có dịp trở lại học đạo ở Thầy Từ Quang lần nào nữa, chỉ có lần cuối cùng đến đảnh lễ Thầy trước khi tôi xa quê hương. Cho nên thành thật mà nói là thời gian đó tôi hoàn toàn chưa hiểu gì về giáo lý đạo Phật. Tôi chỉ y giáo phụng hành theo lời Thầy Bổn Sư, hằng ngày niệm Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô A-di-đà Phật, hoặc Nam-mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Và thành tâm hơn, vui vẻ hơn khi giúp đỡ cho những người đói rách, tật nguyền, cơ nhỡ. Số người này ngày càng đông trong chế độ mới. Việc làm này đối với tôi cũng khá quen thuộc. Nhớ hồi nhỏ còn học tiểu học, mỗi sáng mẹ tôi thường cho một đồng để mua xôi ăn trước khi đến trường. Từ nhà đến trường khoảng 4 cây số, nếu gặp những người già yếu chống gậy đi xin thì tôi cho họ. Lúc đưa tiền tôi chỉ nói “Cháu gởi bà…” như lời mẹ dặn, chứ không nói chữ “cho” làm sợ người ta tủi thân tội nghiệp! Bình thường khi có người nghèo đến nhà xin ăn, mẹ bảotôi lấy cho họ một lon gạo, nhưng tôi thường lén cho họ nhiều hơn, vì tôi thấy họ tội nghiệp quá! Bây giờ nghe Thầy Bổn Sư giảng dạy, tôi mới biết đó là hành động bố thí. Đó là cách thể hiện lòng từ bi… Tôi vẫn luôn trì niệmdanh hiệu Phật, dần dần tâm tôi được bình an trở lại, tôi quên mất những lo âu và căn bệnh của tôi cũng dứt hẳn.

 

Thời gian cứ mãi trôi mà tôi vẫn tưởng như chậm lại. Hằng ngày tôi vẫn cầu nguyện và chờ đợi tin tức của chuyến tàu đưa con tôi đi, chưa biết là về đâu! Thế rồi hơn tháng sau, chúng tôi được tin cháu được tàu Đức vớt và đưa vào Hồng Kông để chờ lệnh của chính quyền Tây Đức. Rồi một chiều đi dạo ra biển, con trai tôi bị rớt từ trên cầu tàu cao khoảng 5 mét xuống gầm cầu. Mọi người đứng trên cầu hốt hoảng tưởng chừng cháu bị thương nặng và có thể chết, vì khi rớt có lôi theo một thanh sắt lớn và dưới gầm cầu có nhiều tảng đá to. Thế mà khi rớt xuống, thanh sắt văng ra xa mà cháu lại rớt ngồi trên tảng đá như có bàn tay vô hình nâng đỡ, cứu giúp! Thật phúc thay. Tôi thầm cảm ơn chư Phật cứu độ. Từ đó tôi luôn niệm Phật và làm việc thiện nhiều hơn…

 

Một năm sau, tôi nhận được giấy bảo lãnh đoàn tụ gia đình với con trai từ Đức gởi về, nhưng nhà nước cộng sản Việt Nam không chịu cấp giấy xuất cảnh, không giải quyết và ém nhẹm hồ sơ đợi chúng tôi lo lót tiền… Đã 10 năm kể từ tháng Tư năm 1975 đến năm 1985, đời sống và sinh hoạt của dân chúng rất khó khăn, nhưng tôi may mắn được bạn bè hết lòng giúp đỡ. Đặc biệt là vợ chồng Bác sĩ Phạm Thiên Bê (trưởng khoa tim ở bệnh viện Nguyễn Trải) và vợ là Bác sĩ Hồ Thị Đào, con gái bà Mộng Cầm, người yêu của Hàn Mạc Tử. Đào là bạn học của tôi từ thuở nhỏ. Hai vợ chồng này đã chữa lành bệnh của cán bộ Chủ tịch quản lý chợ Bình Tây, nên họ đã xin ông Chủ tịch cấp cho tôi một gian hàng ngoài chợ để bán tạp hóa. Trong thời gian này, cũng có rất nhiều bạn bè tốt bụng giúp đỡ tôi, nhờ đó gia đình tôi có cuộc sống ổn định và khá giả hơn. Lại có người bạn gái của em tôi, chồng đi tù cải tạo ở Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt, 2 con còn nhỏ dại, nên bao nhiêu đồ đạt vật dụng trong nhà đều mang đi bán hết để nuôi con và thăm nuôi chồng. Nghe hoàn cảnh cô ta thật tội nghiệp, là phận đàn bà trong giai đoạn đói nghèo nhiễu nhương của đất nước, nên tôi cho cô mượn một số tiền khá lớn để làm vốn buôn bán và trả dần lại cho tôi. Nhưng sau một thời gian khá lâu, không thấy cô liên lạc, nên tôi tìm đến nhà để đòi tiền lại. Khi vào nhà cô, thấy cảnh nhà trống vắng quạnh hiu, cô đang nằm trùm mền không ngồi dậy nổi. “Chị ơi em bị bệnh nặng quá, không có tiền mua thuốc uống, làm sao có tiền để trả cho chị đây! Em vẫn nhớ ơn chị đã cho mượn tiền, em không giựt tiền của chị đâu, em xin chị.” Tôi đứng lặng thinh, nhìn cô lòng không còn giận nữa mà tự dưng chạnh lòng muốn khóc. Tôi mở ví ra, lấy một số tiền cho cô ấy và dặn hãy mua thuốc uống ngay.

 

Tôi lặng lẽ ra về với nỗi thương tâm và tự nhủ là hãy cố quên đi số tiền đã cho cô ấy mượn. Đúng là đời sống đang quá khó khăn cơ cực, nhiều gia đình không có gạo ăn, chỉ độn khoai, sắn thì làm sao cô ấy có số tiền để trả lại cho mình. Rồi bản thân cô còn phải nuôi con, nuôi chồng cải tạo nữa! Từ đó cho đến khi tôi đi đoàn tụ với con trai, tôi không còn gặp lại cô ấy và cũng không biết hoàn cảnh của cô ấy bây giờ ra sao?

 

Sau đó không lâu, bất ngờ tôi lại được thêm một may mắn khác, có một người xa lạ ngẫu nhiên đến giúp mình. Đó là chị Năm, một cán bộ quản lý hãng bột nêm thay thế bột ngọt Vị Hương Tố trước năm 1975. Từ bột ngọt pha chế ra bột nêm để phân phối hằng tháng cho mỗi hộ gia đình. Chị Năm biết tôi là người thành tín nên thường mua bán với tôi không cần phải “tiền trao cháo múc.” Hồi đó, tôi không nghĩ “cho đi là nhận lại” hay “nhân

nào quả ấy”, mà đơn giản là chỉ giúp người trong lúc khó khăn và cũng chưa biết “từ bi hỷ xả” là thế nào. Cho nên

khi tôi được chị Năm giúp làm ăn, tôi chỉ nghĩ rằng mình có may mắn “ở hiền gặp lành”, hưởng được phước báu của ông bà để lại mà thôi!

 

Nhiều bạn bè, khi nghe tôi có giấy bảo lãnh đi Tây Đức vào tháng 11 năm 1985, đều khuyên tôi nên ở lại vì chỉ còn một thời gian ngắn nữa là đến thời kỳ mở cửa, giao thương buôn bán tự do. Ngay cả chị Năm cũng đề nghị tôi ở lại hợp tác làm ăn, chị sẵn sàng giúp tôi về mọi phương diện. Thế nhưng vì lòng thương con trẻ không có cha mẹ chăm sóc trên xứ người, nên tôi quyết định ra đi. Bạn bè cả trăm người bùi ngùi nước mắt tiễn đưa, vì ai cũng nghĩ rằng sẽ không có ngày gặp lại. Chính tôi cũng buồn vì tưởng từ đây và mãi mãi sẽ mất hết những người thân yêu! Ngược lại cũng có nhiều người khác chúc mừng cho gia đình tôi đến được “thiên đàng tự do”…

 

***

Cuối năm 1985, chúng tôi đến định cư tại thành phố cảng Hamburg, miền Bắc Đức. Thật là một phước duyên, vì ở đó có Tịnh Thất Bảo Quang do Sư Bà - hồi đó là Sư cô Thích Nữ Diệu Tâm, đã đến định cư tại Hamburg vào năm 1984. Thời gian đầu, dù có lãnh phụ cấp xã hội, nhưng tôi vẫn phải đi làm vừa chăm sóc các con còn nhỏ. Họ hàng bên chồng ở Pháp thì hầu như không muốn trả lại số tiền sản phẩm mỹ nghệ mà tôi đã chuyển sang nhờ bán giúp, cũng như trong gia đình có người còn ích kỷ ganh tỵ tranh giành của cải, viết thư nhục mạ tôi thậm tệ. Nhiều lúc như vậy tôi không còn muốn sống nữa, nhưng vì trách nhiệm làm mẹ và lòng thương con bao la nên tôi phải cố chịu đựng, không dám tâm sự với ai. Cuối cùng tôi phải đến đảnh lễ Sư Bà, khóc lóc kể hết mọi khổ đau, thị phi nhân ngã, mang tiếng chịu lời để xin Sư Bà giúp tôi vượt qua đại nạn này. Sư Bà thấu hiểu hết nên thường dịu dàng nhắn nhủ: “Cô hãy cố gắng sống tốt, đừng quan tâm đến người khác nghĩ gì về mình, cũng không nên phản ứng gì trước những lời xúc xiểm miệt thị ta. Đó là họ chỉ cho ta thấy bản chất thật của họ, chứ không phải là bản chất của ta. Mỗi người có một nghiệp riêng, mà khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nhất mà họ sẽ phải gánh chịu. Cô hãy cố giữ bình tĩnh, yên lặng chịu đựng là cách tốt nhất, bởi vì một khi sân hận nổi lên thì muôn ngàn nghiệp chướng sẽ xảy ra.” Đó là hạnh nhẫn nhục mà tôi học được từ Sư Bà.

 

Thật ra tôi cũng học được chút ít giáo pháp của đức Phật nhờ tham dự vài ba khóa tu học Phật Pháp Âu Châu, hoặc được nghe nhiều thời pháp tại chùa Bảo Quang hay tại Tổ Đình Viên Giác của quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, hay nghe những thời giảng pháp trên mạng internet. Nhưng giáo pháp của đạo Phật mênh mông như đại dương, càng học tôi càng cảm thấy kiến thức của mình vẫn còn quá hạn hẹp, non kém…

 

Tôi viết bài này vào đầu tháng 6 năm 2022, nhằm ngày tiểu tường của Sư Bà Diệu Tâm, để tự nhắc nhở mình Sư Bà là nhân duyên để tôi học Phật và để mãi mãi tưởng nhớ đến Sư Bà với tất cả những hình ảnh đầy thương yêu, trân quý và tôn kính; mà những lời khuyên nhủ từ ái của Sư Bà đã xoa dịu nỗi muộn phiền và giúp tôi thêm nghị lực để sống… Để sống, để nhớ đến Sư Bà, nên hằng ngày trước các bữa ăn, tôi vẫn thường niệm “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” để luôn giữ được tâm an tịnh giữa cuộc đời đầy nhân ngã thị phi… Và tôi cũng thầm nguyện với lòng mình “không làm các việc ác, nguyện làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch” để đền ơn Chư Phật, Thầy Tổ và các đấng sinh thành.

 

Phương Quỳnh (Diệu Thiện)

 

Giới thiệu sơ lược về tác giả Phương Quỳnh

           - Tên thật Nguyễn Thị Hiền, Pháp danh Diệu Thiện, bút hiệu Phương Quỳnh

- Cựu học sinh Phan Bội Châu, Phan Thiết

- Nghề nghiệp: Giáo Viên

- Định cư tại Hamburg, Đức Quốc từ năm 1985

- Giải thưởng hạng 2 cuộc thi “Viết Về Âu Châu”, chùa Viên Giác tổ chức năm 2002

- Tác phẩm “Những cây Bút Nữ 2” viết chung với Nhóm Bút Nữ, Viên Giác xuất bản năm 2014.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/05/2017(Xem: 11763)
Lời Pháp Tỉnh Lòng Mê – HT Thích Thái Hòa – 2016
31/05/2017(Xem: 14410)
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Tăng – HT Thích Thái Hòa
31/05/2017(Xem: 12621)
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Chánh Pháp – HT Thích Thái Hòa
31/05/2017(Xem: 11283)
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật – HT Thích Thái Hòa
28/05/2017(Xem: 9269)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
22/05/2017(Xem: 49707)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
25/04/2017(Xem: 6073)
UNIVERSAL LOVE OF THE BUDDHA Written by Andrew. J. Williams Produced and performed by Andrew. J. Williams and Roger. J. McLachlan Recorded by Roger. J. McLachlan SONGLIST 1. UNIVERSAL LOVE reprise (Williams) 2. DEAL OF GOLD (Williams) 3. GOLDEN GENEROSITY (Williams/McLachlan) 4. PROMISE (Williams) 5. UNIVERSAL LOVE reprise (Williams) 6. ONE PEOPLE (Williams) 7. PERFECT PLACE (Williams) 8. REVERENCE (Williams) 9. CELESTIAL BALLET (Williams) 10. OBSTACLES & FEARS (Williams/McLachlan) 11. THE SOLUTION (Williams) 12. LIBERATION (Williams) 13. UNIVERSAL LOVE (Williams) 14. MERIT DEDICATION (Williams)
14/04/2017(Xem: 3305)
Cách đây hơn 2600 năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng và thế giới. Một sự kiện trọng đại thật là hy hữu và hiếm có, Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ngài đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni vào ngày rằm tháng tư năm 624 trước công nguyên, ngoại thành Ca Tỳ La Vệ, ngày nay là xứ Nepal. Khi Đức Thế Tôn thị hiện đản sanh, tiên nhân A Tư Đà đoán rằng sau này Ngài sẽ trở thành vị Vua Chuyển Luân Thánh Vương và nếu xuất gia học đạo sẽ thành Phật. Lịch sử của Đức Thế Tôn có tính siêu việt giống như đoá hoa Vô Ưu mấy ngàn năm mới nở một lần.
13/02/2017(Xem: 5173)
Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. (Đại Bát Niết Bàn – Trường Bộ Kinh)
28/05/2016(Xem: 11879)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567