Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

07/01/201205:38(Xem: 7172)
Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

Phat Thich Ca_1aĐỨC PHẬT CÓ THUYẾT PHÁP HAY KHÔNG THUYẾT PHÁP

Tâm Diệu

Trong các danh từ chuyên môn của đạo Phật,có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệtrõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai từ "ChânĐế" và "Tục Đế".

Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinhthoát khổ sinh tử nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bàycho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, đểchúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thếgiới Tục đế, đến thế giới Chân đế.

Cũng vì thế mà Ngài Long Thọ Bồ tát nóirằng: "... Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhấtlà Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thứcđược hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chânnghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì không thể thấy được chân lý; nếukhông thấy được chân lý, thì không thể ngộ được Niết bàn..." (1)

Tục đế là một hợp từ: "tục" nghĩalà thế tục hay phàm tục, "đế" nghĩa là chân lý. Tục đế có nghĩa lànhững cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còngọi là chân lý tương đối. Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là chân lýchân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối thượng, cũng còngọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, là giác tánh, là chân như...

Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết đượcngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã giác ngộ. Các Ngài cũng không thể nói chochúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài"dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh" (2), cốt để chúng sinh ngộ được cái chânlý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác,vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời gian.

Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chưTổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị baovây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không.Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong mộtcái bình mà "khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bênngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn...Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờcó sự ngăn cách hay sai khác..." (3)

Vìtâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp "cókhông" nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thậtlà khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chântâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh làchấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng khônglà nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận. Nên Phậtmới dùng các pháp thế gian phương tiện, "giả lập kệ pháp, giả lập danh tự,vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ Đề, Niết Bàn, giảithoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, ... Biết họ gánh trăm tạchẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa,tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là phápác..." (4).

Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khóhiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói,như trong Kinh Pháp Hoa, Phật dùng bảy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cáinhà lửa và câu chuyện đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều Kinhkhác như Bách Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụNgài nói trong kinh dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâmthúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếpmà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái cóhình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.

Chư Tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nóicho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý Ngài chỉ dùng những câuchuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằngcon rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh concá, kể chuyện đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏinước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà khôngcó nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện viểnvông hoang đường, không có trong thực tế. (5)

Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh,chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được.Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: "Đạo Phật cao siêu quá, khôngcó trong thực tế". Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo.

Kinh Kim Cang là Kinh liễu nghĩa, nói vềcốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói.Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tươngđối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhânkiên cố của vòng xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muônvạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn làNgài không thuyết pháp:

"- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng:"Ta có nói pháp". Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao?
- Vì nếu ngườinào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của tanói.
- Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nóipháp." (6)

Có nghĩa là Phậtkhông nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vìchân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị.Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, màngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòahợp, và do nhân duyên hòa hợp nên không có thật.

ĐứcPhật khi giảng pháp, Ngài luôn luôn nói sự thật. Cókhi Ngài nói về sự thật tương đối và có khi Ngài nói vềsự thật tuyệt đối. Nếu không hiểu điều đó, chúngta thấy nhiều điều Ngài nói trái ngược nhau và sẽ làmcho chúng ta bối rối, hiểu mập mờ, hỗn độn (confuse). Thí dụ như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đức Phật nói:

Chưhành vô thường,
Thịsinh diệt pháp.

Sinhdiệt diệt dĩ,

Tịchdiệt vi lạc.

Haicâu đầu có nghĩa là tất cả các pháp hiện tượng đềuvô thường, chúng đều là những pháp sinh diệt. Hai câusau có nghĩa là khi sinh và diệt đã bị diệt, tức không cònsinh diệt nữa thì còn là niềm an lạc. Trong thế giớinày, tức thế giới tương đối có sinh và có diệt, còn thếgiới kia tức thế giới tuyệt đối thì không sinh không diệt.Nếu chúng ta không hiểu rõ tục đế và chân đế thì chorằng đức Phật nói trái ngược nhau. Sự thật Ngàiluôn luôn nói đúng sự thật. Hai câu đầu là tục đếtức thuộc thế giới hiện tượng tương đối, có sanh vàcó tử. Hai câu sau thuộc lãnh vực tuyệt đối tức chânđế, không có sinh và không có diệt, là thế giới của pháptánh hay thế giới của bản thể.

Đếnđây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát Long Thọ đã nêu trên phần mở đầu. BồTát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý tương đối vàchân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu đượcđạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằngđem lời Đức Phật nói "Không thể nói pháp Tuyệt Đối", mà cho làĐức Phật nói "Không nói pháp Tương Đối" là chúng ta vô tìnhvướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức Phật.Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách mà tiếndần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta khônghiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mấtniềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính xác để tìm đường trở lại bảnthể chân tâm tuyệt đối.

Ghi Chú

(1).Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng vàTriết Học Tánh Không, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999.

(2). Kinh Đại Bát Nhã, Cuốn 2, Trang 275

(3). Sogyal Rinpoche -Thích Nữ Trí Hảidịch, Tinh Chất Cam Lồ, TP HCM Việt Nam 1969

(4). Bá Trượng Ngữ Lục, Thích Duy Lực, Từân Thiền Đường xuất bản, 1999 trang 29-30

(5). Narada Maha Thera, Đức Phật và PhậtPháp, Phạm Kim Khánh Việt dịch, Đại Nam xuất bản 1987, trang 458-459

(6). Thích Huệ Hưng dịch, Kinh Kim CangGiảng Lục, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1983, trang 82

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/01/2021(Xem: 5134)
Cùng nhau dâng lòng kính ngưỡng sâu xa đến Bậc Giác Ngộ ( đầy trí tuệ, vị tha nhân ái , một con người lịch sử nhưng siêu việt và sáng ngời như một vầng Nhật Nguyệt !) Kính xin mượn những vần thơ cuối trong lời cảm bạt của tác phẩm MỘT CUỘC ĐỜI MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT do HT Giới Đức ( Minh Đức Triều Tâm Ảnh ) viết về cuộc đời của Đức Thế Tôn.....để diễn tả lại nỗi rạo rực dạt dào đang như bừng cháy trong lòng tôi và tôi chỉ biết rằng .... dường như Ngài đang hiện trên không và đang trao cho tôi một gia tài trân bảo như Ngài đã trao cho Tôn Giả La Hầu La khi Tôn giả thọ cụ túc giới lúc 20 tuổi .....và tôi đã quỳ sụp lạy và đảnh lễ Ngài mà nước mắt dâng trào ....
06/10/2020(Xem: 13146)
Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh, Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành. Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã, Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng. Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp, Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành. Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng, Lập thành công lớn chẳng kể công.
12/06/2020(Xem: 6031)
Từ đầu năm 2020 dịch Corona bùng phát khắp thế giới, một loại dịch nguy hiểm chết người, dễ lây lan, không thuốc chữa. Đã có vô số người chết và nhiễm bịnh. Con số kể ra thật chóng mặt, đau lòng. Chỉ riêng Thụy Sĩ thôi, nước nhỏ, dân số 10 triệu người, mà hằng ngày cả ngàn ca nhiễm, hằng trăm người chết. Chao ôi, cứ đà này là hết dân số!
26/05/2020(Xem: 9509)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
12/05/2020(Xem: 18286)
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
05/05/2020(Xem: 7121)
Lại thêm một mùa Tưởng Niệm Từ Phụ Đản Sanh trở về với địa cầu nhân gian, năm châu bốn biển lần thứ 2644 năm. Nhưng Mùa Phật Đản năm nay, chúng con không được tổ chức với hình thức thật long trọng để cung đón Ngài Thị Hiện Đản Sanh trên các lễ đài thật trang nghiêm được kết bằng những đoá hoa lòng tinh khiết. Chúng con không biết suốt chiều dài lịch sử 2644 năm đã có năm nào như năm nay hay không. Đã có năm nào tưởng niệm Ngài Đản Sanhmà chỉ âm thầm trong lòng của mỗi người con Phật như năm nay hay không? Kính lạy Đức Từ Phụ Chúng con thật xót xa, khi ngày Tưởng Niệm Đản Sanh trở về, mà hàng con Phật chúng con không thiết trí được Lễ Đài nguy nga, trang nghiêm hết mức bằng tất cả phẩm vật của trần gian. Để tôn trí kim thân Ngài lên bảo toà cao cao, cho trời người chiêm ngưỡng tưởng niệm ân đức cao vời lồng lộng của Ngài, mà trong nhân gian ba cõi không gì có thể so sánh được.
05/03/2020(Xem: 9658)
Lời cuối cùng Đúc Phật còn chỉ dạy: " Tôn kính Ta, thực hành đúng Giáo Pháp Ta" Là Phật tử ...nay con đã nhận ra , Trách nhiệm chính mình ....thanh tịnh Giải thoát .
28/02/2020(Xem: 13017)
Cõi trời Đâu Suất Bồ Tát giáng trần Khi quán Sa Bà nhân duyên hội đủ Hoàng hậu Ma Da nằm mộng đêm đó Thấy Voi Sáu ngà nhập ở bên hông
05/01/2020(Xem: 3661)
Ngày 4-1-2020 (10-12 Kỷ Hợi), nhân khóa tu định kỳ lần thứ 12, TT.Thích Minh Tâm và Tăng chúng bổn tự đã tổ chức lễ tổng kết đạo tràng niệm Phật chùa Linh Sơn Pháp Ấn (thôn Khánh Thành, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa) tròn 18 tuổi. Quang lâm chứng minh và tham dự có HT.Thích Minh Khai, viện chủ chùa Bửu Quang (huyện Cam Lâm); TT.Thích Bổn Chủng, chùa Linh Quang (huyện Diên Khánh), chư tôn đức Tăng Ni các tự viện trong huyện Diên Khánh, Cam Lâm và hơn 400 Phật tử đến từ các xã phường trong tỉnh. Sau khóa lễ niệm Phật và phóng sanh, đại chúng lắng nghe pháp thoại “Của để dành” do Đại đức Thích Đạo Quang, Giáo thọ sư trường Sơ, Trung cấp Phật học TP.Hồ Chí Minh, trú xứ Tịnh thất Củ Chi chia sẻ.
24/12/2019(Xem: 7348)
Xưa và nay, trong lịch sử của nhân loại, tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ trải qua các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ cho tự thân và tha nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học, văn học, triết học, đạo học, v. v… Bồ-tát Tất-đạt-đa Gautama,[1] một vị đạo Sư tâm linh hoàn hảo, có đầy đủ đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với năm anh em Ông A-nhã Kiều-trần-như. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Bồ-tát, một con người xuất chúng bằng xương bằng thịt, đã tìm ra chân lý bằng cách thiền định tại Bồ-đề-đạo-tràng suốt 49 ngày đêm, và chứng ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát trở thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni, một đức Phật lịch sử, có mặt trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, được chư thiên và loài người tôn kính, có khả năng đem
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]