Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược truyện tiền thân Đức Phật

29/08/201105:02(Xem: 12857)
Lược truyện tiền thân Đức Phật

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòa thượng Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế, California, 1998

Mục Lục

Thaylời tựa
01Thái Tử Nhẫn-Nhục-Khải
02Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật
03Cắt Thịt Nuôi Cha Mẹ
04Thiện Hữu và Ác Hữu
05Hai Nhà Vua Hiền Đức
06Chuyển Luân Thánh Vương
07Vua Chuyển Luân Đảnh-Sanh
08Vì Hiếu Quên Thù
09Kẻ Ngu Hay Cãi
10Chồn Cưới Công Chúa
11Chim Phượng Hoàng
12Nai Cứu Người
13Quốc Vương Hữu-Đức
14Tể Tướng Đại-Điển-Tôn
15Nhẫn Nhục Tiên Nhân
16Người Đệ Tử Cuối Cùng

ThayLời Tựa

Nhân-quả, Luân-hồi,Nghiệp báo là đạo lý căn bản của Phật giáo. Sông biển có thể cạn khô. Mặt trờimặt trăng có thể rơi rụng. Nhưng đạo lý nầy muôn đời không sai. Dù thế pháp hayđạo pháp, tăng hay tục, bất luận hạng người nào, hễ còn vào ra trong sanh tử,trôi lăn trong sáu đường, đắm chìm trong ngũ dục, lặn hụp trong lợi danh dụctình, thì nhất định không cách nào thoát khỏi mãnh lực của luật nhân quả, luânhồi, nghiệp báo chi phối.

Không tin nhân quả,luần hồi, nghiệp báo là tự mình đào sâu hố thẳm thối hóa, tự mình mở cửa tộilỗi, đi vào bóng đêm tăm tối thăm thẳm. Không tin nhân quả, luân hồi, nghiệpbáo là đi ngược luật tiến hóa thiên nhiên, là tự nghiền nát khả nang phát triểnthánh thiện của mình. Ngày xưa, khi đức Phật đanh tĩnh tọa dưới gốc cây, có vịthiên thần đến hỏi Phật: "Bạch đức Thế-Tôn! Trên đời nầy cái gì tăm tốinhất? Cái gì tội lỗi nhất?"

Đức Phật trả lời:"Lòng dạ ngu si không biết phân định chánh tà là tăm tối nhất. Không tinnhân quả, luân hồi, nghiệp báo là nguồn gốc sanh ra tội lỗi nhất".

Có tin nhân quả, luânhồi, nghiệp báo mới thấy được cội nguồn tội phước, mới chuyển bước hướng thiện,mới tìm thấy ánh sáng chân lý cuộc đời, mới giải tỏa được bao nỗi ưu tư thắcmắc của tâm thức, và mới thực sự liễu giải mọi hiện tượng sanh diệt chuyển biếnthịnh suy của thế nhân.

Nhân quả, luân hồi,nghiệp báo bao trùm và chi phối muôn loài vạn vật. Thế nên tất cả những hiệntượng nhân sanh vũ trụ thăng trầm sanh diệt không ngoài luật nhân quả. Tin hiểunhân quả, luân hồi, nghiệp báo là chìa khóa khai mở kho tàng bí ẩn thầm kínthâm sâu của kiếp người, là đài gương quán chiếu giải tích mọi hiện tượng nhânsanh vũ trụ. Một khi đã hiểu rõ và tin sâu đạo lý nhân quả, luân hồi, nghiệpbáo, con người không còn thắc mắc về thân phận mình và hoàn cảnh tha nhân.

Nhân quả, luân hồi,nghiệp báo là quỹ đạo, là mấu chốt cho những hệ quả hiện tượng dây chuyền thiênchuyển biến dịch của các pháp, là hiện trạng hiển hóa sanh sanh diệt diệt thăngtrầm chuyển kiếp của hữu tình chúng sanh đời này sang đời khác. Mọi hiện tượngcủa kiếp người trong vũ trụ thăng trầm tan hợp chỉ là sự thay hình đổi lớp hệlụy theo nghiệp nhân quả báo, chứ bản chất cốt tủy của nó không bao giờ mất.Như sóng biển lặn nơi nầy nổi nơi khác. Nhà bác học Lavoisier (1743-1794) đãnói: "Mọi hiện tượng trên đời không có gì còn mãi, cũng không có gì vĩnhviễn mất".

Đức Phật đã thấu suốtdiệu lý chơn thường của vạn pháp, nên trên đường giáo hóa độ sanh, Ngài đã baolần giải đáp thắc mắc cho thính chúng đệ tử. Ngài thường dẫn chứng đạo lýnghiệp quả, luân hồi, nhân duyên, tiền kiếp. Nhờ đó mà thính chúng thấu rõ mọihiện tượng sinh sinh hóa hóa, giải tỏa nghi hoặc, tiến tu, thể nhập diệu lýĐại-thừa.

Do công đức tu hành màđức Phật có được trí huệ giác ngộ, thấu suốt chân lý vũ trụ nhân sanh. Nhờ giớithể thanh tịnh mà đức Phật có huệ nhãn suốt thấy các kiếp chúng sanh biếnchuyển đổi dời từ thời quá khứ sang thời hiện tại và tiếp diễn đến đời vị lai.Ngài là người bộ hành đã lên đến đỉnh núi giác ngộ, ngồi thưởng thức trăngthanh gió mát với quãng trời giải thoát bao la, rồi nhìn lại quãng đời đầy sôngnúi suối đèo ghềnh thác chông gai mà mình đã trải qua. Ngài thấu suốt tất cảngọn ngành uẩn khúc của kiếp chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi. Trong lúc đó,chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, sống trong vô minh vọng thức, tội lỗi chấtchồng. Do tà tâm vọng tưởng, nên phiền não dày vò, phàm tánh cuốn lôi, lạc lốitrong rừng núi thâm u đầy bất trắc. Kiếp người như thuyền nan trong biển cả đầyhiểm nguy không địa bàn để tìm ra định hướng.

Tuy đức Phật đời đờithương xót gọi kêu chúng sanh thức tỉnh, tiếng pháp âm không ngừng vang vọng,nhưng chúng sanh không thúc liễm thân tâm, cứ mải mê say đắm trong ngũ dục lạctrần gian mông huyễn. Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, đức Phật nói: "Mười phương cácđức Như-Lai đời đời thương xót chúng sanh như mẹ hiền thương con nhỏ, lúc nàocũng muốn giúp đỡ cho con nên người sáng suốt an vui. Nhưng con cứ tìm cáchtrốn tránh mẹ, thì cho dù mẹ có thương con đến mấy đi nữa, cũng không cách nàogiúp đỡ con được. Mẹ tìm con mà con cứ mãi trốn mẹ, thì mẹ con đời đời xacách!" Chư Phật Bồ-Tát luôn luôn mang từ bi trí huệ an lành hướng về chúngsanh, như mặt trời lúc nào cũng trải nguồn sáng ấm cho vạn vật. Nhưng có nhữngvõ cây sanh trong kẹt đá, những sinh vật sống trong rừng thẳm biển sâu thìkhông thể nào tiếp nhận được nguồn sáng ấm của mặt trời.

Kiếp người diễn biếntừ đời này sang đời khác vô cùng tận, như lượn sóng trên đại dương, chỉ có tríhuệ giác ngộ của Phật mới kiểm chứng được số lượng kiếp kiếp. Và chỉ khi nàođạt quả Vô-thượng Bồ-đề mới chấm dứt kiếp luân lưu sanh tử từ thời quá khứ sangthời hiện tại.

Bàng bạc khắp trongtam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liênhệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.

Trong tâm nguyện đềnơn giáo hóa muôn một của đức từ phụ Thế-Tôn và cũng để giúp tư liệu cho nhữngai muốn biết phần nào về những kiếp quá khứ của đức Phật, do vậy, tỳ kheo QuêMùa tôi không ngài tài hèn đức bạc, mạo muội soạn dịch một ít truyện trong muônngàn truyện tiền thân của đức Phật, để cống hiến quý hiền giả.

Nơi đây, tôi chânthành tán thán công đức Phật tử Trần-Hải-Hùng - Pháp danh Chơn Lạc, vàVương-Mỹ-Linh - Pháp danh Diệu Tâm, đã phát tâm Bồ-đề hiến cúng tịnh tài để chotậpLược Truyện Tiền Thân Đức Phật nầy đủ duyên tái bản hầu kết thiện duyênBồ-đề cùng bạn lành bốn phương.

Nguyện đem công đứcnầy cầu nguyện Phật tử Chơn Lạc và Diệu Tâm cùng gia đình thường được bình an,đồng thời hồi hướng đến tứ trọng ân và pháp giới chúng sanh đều được an lành,sớm phát tâm Bồ-đề quy-y Tam-Bảo, liễu ngộ chánh pháp Đại-thừa, đạt thành đạoquả giải thoát.

Hoa-Kỳ, Vu-Lan Mậu Dần- 1998
Thích Đức Niệm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 2039)
Luận điểm cho rằng Đức Phật là người tích hợp tư tưởng triết học Ấn Độ bắt đầu với các triết gia Bà-la-môn giáo nhằm hạ thấp triết học Phật giáo xuống mức bình thường, không có gì sáng tạo như Gaudapada, Dinnaga, Shankara…(Vì không có phần mềm gõ chữ Sanskrit và Pali nên các thuật ngữ này chúng tôi viết theo dạng La-tinh hóa). Tiếp đến là những giáo sĩ và tín đồ Bà-la-môn muốn xóa sổ Phật giáo ở Ấn Độ bằng cách tuyên truyền rằng, Đức Phật là hóa thân thứ chín của thần Visnu! Và cho rằng những học thuyết như luân hồi, nghiệp… là của đạo Bà-la-môn, chỉ vì chúng giống nhau về tên gọi (nhưng lại hoàn toàn khác nhau về mặt nội dung).[1] Sai lầm này, đến ngày nay, vẫn còn ăn sâu trong tâm trí những người Bà-la-môn.
04/02/2011(Xem: 2943)
Many, many years ago, in a small kingdom in the north of India, something was happening that would change the whole world.
02/02/2011(Xem: 4790)
Nhân nói về mùa XuânDi-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêmvề một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước. Theo Wikipedia, mộtsố các nhà Phật học như các vị giáo sư Erich Frauwallner, Giuseppe Tucci, vàHakiju Ui cho rằng Luận sư Di-lặc (Maitreya-nātha– khoảng 270-350 TL)là tên một nhân vật lịch sử trong 3 vị luận sư khai sáng Du-già hành tông (Yogācāra)hay Duy thức tông (Vijñānavāda)...
01/02/2011(Xem: 2262)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
13/01/2011(Xem: 19048)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
05/01/2011(Xem: 3358)
Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, xá lợi của Ngài được chia thành tám phần cho tám lãnh thổ như Vương Xá (Rājagaha), Vesāli,, thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu), Allakappa, Rāmagāma, Vethadīpa, Pāvā và Câu-thi-na (Kusinārā). Để có nơi tôn kính thờ xá lợi của các bậc thánh, kiến trúc của các ngôi tháp bắt đầu phát sanh và tiến hóa. Nhiều thế kỉ trôi qua, Phật giáo theo thời thế mà thăng trầm lên xuống và xá lợi hầu hết cũng bị thất lạc. Vào thế kỉ XX, các nhà khảo cổ trong khi khai quật vùng Taxila và ngọn đồi Long Thọ (Nāgārjunakondā) đã tìm thấy các viên xá lợi thật của của Đức Phật và hiện nay được thờ tại Sārnātha. Tác giả Tham Weng Yew đã viết về lịch sử và ý nghĩa của việc thờ xá lợi, tiến trình thăng hóa các đền tháp thờ cùng các hình ảnh minh họa. Tỳ-kheo-ni Giới Hương đã phát tâm dịch ra tiếng Việt và đây là lần xuất bản thứ 2.
05/01/2011(Xem: 2289)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: "Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa" Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:
04/01/2011(Xem: 43003)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
21/12/2010(Xem: 1727)
Năm đầu tiên (528 TTL): Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đó, Ngài giảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ năm anh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).
24/11/2010(Xem: 10466)
Bộ Ảnh về Cuộc Đời Đức Phật, Bộ hình phác họa về lịch sử, cuộc đời đức Phật do một họa sĩ người Thái Jamnuon Jhanando thực hiện. Những lời giải thích do cá nhân chúng tôi chú thích, nếu có sai sót xin nhờ quý vị chỉnh sửa dùm cho đúng. Kính tri ân…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567