Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trí Tuệ và Ngu Si

20/09/202213:27(Xem: 1965)
Trí Tuệ và Ngu Si


phat thuyet phap

Trí Tuệ và Ngu Si




Bạn ơi,

-Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa.

-Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại.

-Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng)

-Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.


-Kẻ có trí tuệ thường giao du với các bậc trí thức để bàn luận và học hỏi thêm. Các nhà tư tưởng của Tây Phương đã có nhận xét rằng, “Small minds dicuss people. Average minds discuss events. Great mind discuss ideas.” Kẻ có đầu óc nhỏ bé chuyên bàn tán về người. Gặp nhau thì loan truyền tin tức: Nào là cô đào hay tài tử, ca sĩ ABC vừa ly dị hay đánh ghen om sòm. Rồi thì cô công chúa, bà hoàng, đệ nhất phu nhân nọ ăn mặc quần áo nào đắt tiền. Rồi bà nữ hoàng vừa mới chết có cuộc sống vương giả như thế nào.Toàn là chuyện của ông này bà kia đem ra bình phẩm, khen chê, thèm khát. Kẻ có đầu óc trung bình thì bàn tán chuyện thời sự: Ông tổng thống vừa mới tăng thuế, tối cao pháp viện từ chối quyền phá thai, cuộc bầu cử kỳ này đảng nào thắng? Lạm phát tăng vọt và đời sống dân chúng khó khăn v.v…Còn kẻ có đầu óc lớn thì bàn về tư tưởng và triết lý, chẳng hạn như: Với cái đà suy đồi đạo đức như thế này thì nhân loại đi về đâu? Đâu là giải pháp cứu vớt con người khỏi thảm họa chiến tranh và xung đột? Tại sao khoa học, kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng hung ác và ích kỷ hơn? Ngày xưa Khổng Tử gặp Lão Tử, Trang Tử gặp Huệ Tử đâu có bàn chuyện ông này bà kia hay tình hình đất nước mà toàn là tư tưởng còn lưu truyền mãi tới ngày nay.


-Kẻ có trí tuệ luôn luôn “Hòa nhi bất đồng”, hòa mình với mọi người nhưng mình vẫn là mình. Giống như đóa hoa hồng đứng giữa bụi cây dại nó vẫn là đóa hồng. Còn kẻ ngu si, tiểu trí thường a dua theo đám đông và xu nịnh kẻ quyền thế, giàu có, tăm tiếng và rất dễ “Thấy sang bắt quàng làm họ”.


-Kẻ có trí tuệ quý trọng sinh mạng, không phiêu lưu vào những trò chơi nguy hiểm, Kẻ tiểu trí thường hung hăng và bán rẻ sinh mạng mình, lao đầu vào những lợi lộc nhỏ nhặt và thường tự ái vặt.


-Kẻ có trí tuệ luôn luôn khiêm tốn và năng học hỏi thêm. Kẻ ngu si thường khoe khoang và hãnh diện về những kiến thức lặt vặt ngoài đời.


-Kẻ có trí tuệ nghe người ta nói một câu đã hiểu. Còn kẻ ngu si dù có “bủa vào đầu” dạy bảo như thế nào cũng không được và rất ngang bướng.


-Kẻ trí tuệ đầu óc cởi mở và dễ tha thứ, từ bi hỷ xả vì hiểu rằng trên đời này không có gì toàn vẹn. Còn kẻ ngu si đầu óc cực đoan, ưa bạo động và thường mê tín.


-Kẻ ít học ngu si đã đành nhưng kẻ có bằng cấp, học vị cao vẫn là kẻ ngu si khi không hiểu được lẽ vô thường, cùng-thông, biến hóa của trời đất mà Vạn Hạnh Thiền Sư gọi là bậc “nhậm vận”. Cái gì đã qua rồi thì không thể níu kéo lại được và mọi chuyện dù kinh hoàng cách mấy cũng chỉ là đóm lửa bùng lên trong một sát-na (ksana) (*) trong chiều dài vô tận của thời gian. Một đế quốc dù hùng mạnh thế nào rồi cũng có lúc suy tàn, có đó rồi mất đó qua bài thơ dạy đệ tử:


Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.


Nhưng này bạn ơi,

Dù phân biệt và biện luận như nói ở trên thì nó cũng chỉ là cái hiểu biết “hoàn cảnh” của thế gian này, cõi ta-bà này. Nó không phải là cái hiểu biết của đại trí tuệ. Đại trí tuệ là trí tuệ của Phật “bình đẳng viên mãn mười phương cõi” không hề có thấp-cao, đúng-sai, ngu si, trí tuệ như trong Bát Nhã Tâm Kinh: “Vô trí diệc vô đắc, vô vô minh diệc vô minh tận” (Chẳng có trí tuệ gì hết, chẳng có đắc quả, chẳng có sự ngu dốt và diệt tận ngu dốt).


-Như trong Kinh Viên Giác Đức Phật dạy ngài Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát:

“Thiện nam tử: Niệm chính hay niệm không chính đểu là giải thoát, lập được pháp hay phá pháp đều là Niết Bản, trí tuệ, ngu si đều là Bát Nhã.” Khi đã vào Bể Tịch Diệt Của Như Lai, vào Viên Giác Thanh Tịnh và Nhập Pháp Giới thì chẳng có trí tuệ và cũng chẳng có ngu si, chẳng có vô minh và cũng chẳng có Bồ Đề mà chỉ là sự sáng soi, tịch mịch, thân tâm vắng lặng, đó là Niết Bàn.


-Rồi như trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề:

“Pháp của ta không hề có thấp cao”, vạn pháp đều bình đẳng cho nên “Trí tuệ, ngu si đều là Bát Nhã”.


-Như trong Kinh Đại Nhật (Mặt Trời Lớn) ngài Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ thưa với Đức Phật như sau:

“Thế Tôn! Ví như Hư Không Giới xa lìa tất cả phân biệt, không phân biệt, không có không phân biệt. Như vậy Nhất Thiết Trí Trí cũng lìa tất cả phân biệt, không phân biệt, không có không phân biệt.”


Như vậy thì,

Khi chưa học Phật chúng ta sống với lý trí phân biệt và nhận ra có trí tuệ và ngu si. Khi đó phiền não, thương-ghét nảy sinh. Khi học Phật rồi thì từ trí tuệ sai biệt tiến lên trí tuệ vô phân biệt hay Nhất Thiết Trí hay Đại Viên Cảnh Trí. Khi không phân biệt thì tâm không động và không hề có thương ghét, đó là tâm Phật.

Thế nhưng này bạn ơi,

Muốn đạt được tâm không động hay tâm vô phân biệt thì phải trải qua vô lượng kiếp tu hành. Cho nên phàm phu như chúng ta vẫn tiếp tục sống với tâm phân biệt và thương ghét. Thế nhưng Đức Phật dạy rằng chúng ta phải hy vọng vì chúng ta đều có Phật tánh. Điều đó có nghĩa là trong cuộc sống mỗi lúc mỗi khó khăn, phức tạp, kỳ thị và chia rẽ như ngày hôm nay, chúng ta cố gắng huân tập để bớt khinh chê kẻ ngu si ít học, bớt khinh chê quốc gia kém văn minh hơn mình và bớt thù ghét kẻ không đồng chính kiến hay không tôn thờ những giá trị mà mình tôn thờ trong tinh thần “Giới Hòa Đồng Trụ” (**). Giới Hòa Đồng Trụ có nghĩa là phân biệt mà không phân biệt đúng như lời dạy trong Kinh Đại Nhật nói ở trên. Giống như hoa cúc, hoa lan, hoa hồng, hoa huệ cắm chung với nhau trong một bình nhưng hoa nào vẫn là hoa đó, hòa mà không đồng.

Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 18/9/2022)


(*) Sát-na = 1 phần 75 giây .

(**) Lục Hòa




 

facebook

youtube
  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2019(Xem: 6907)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 3699)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7006)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4142)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 8514)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 3851)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
18/10/2018(Xem: 3747)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 7220)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 6774)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
13/08/2018(Xem: 6406)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567