Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thân phận con người

29/06/201915:32(Xem: 7837)
Thân phận con người

phat thuyet phap



THÂN PHẬN CON NGƯỜI

 

 

 

"Nhân sinh": Đời người, cuộc sống con người

"Quan": Cái nhìn, quan niệm

 

"Nhân sinh quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người.

 

A) Con người từ đâu mà có?

 

Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyết Thập nhị nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây:

 

1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minh đã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.

 

2) HànhDo Mê hoặc mà tâm vọng động tạo tác ra các Nghiệp hoặc lành hoặc dữ.

3) ThứcNghiệp chứa nhóm thành ra nghiệp thức. Nghiệp thức huân tập thuần thục rồi khi đủ điều kiện liền gá vào thai mẹ.

 

4) Danh Sắc: Trong thai mẹ, tâm thức và nhục thể hòa hợp nên gọi là Danh Sắc.

5) Lục NhậpTừ Danh Sắc lần lần tượng đủ 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để đối với 6 trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), gọi là Lục Nhập.

 

6) Xúc: Khi ra khỏi thai thì 6 căn tiếp xúc với 6 trần nên gọi là Xúc.

7) ThọDo tiếp xúc căn trần mà phát sinh cảm giác nóng, lạnh, êm, đau, v.v...nên gọi là Thọ (tức Thọ cảm)

 

8) ÁiDo thọ cảm có vui có khổ mà khởi niệm ưa ghét, chấp đắm lấy các pháp vui và dễ chịu nên gọi là Ái.

 

9) Thủ: Do tham ái nên sanh khuynh hướng chấp giữ lấy, bám níu vào các pháp dễ chịu nên gọi là Thủ.

 

10) HữuDo chấp giữ nên hành động và tạo nghiệp, chiêu cảm quả báo vị lai nên gọi là Hữu (có mầm sống vị lai).

 

11) Sanh: Do có mầm Hữu nên phải có sanh ra.

12) Lão, TửDo có sanh ra nên phải có Già, Chết.

 

B) Con người đi về đâu?

 

Như vậy sự có mặt của con người trong vũ trụ nầy là do niệm Bất giác (Vô minh) từ vô thy. Nhưng thân phận của con người thì thế nào, đáng ưa hay đáng chán? Phật giáo có nhiều giải đáp, tùy theo trình độ và tông phái mà có nhiều khía cạnh khác nhau như cạn hay sâu, rộng hay hẹp, ngoài hay trong, tướng hay thể, v.v...nhưng không chống trái mà lại bổ túc cho nhau để cho cái nhìn được toàn diện. Chúng ta có những quan niệm và phương hướng sau đây:

 

1) Nhơn thừa: Thân người do Tứ đại hòa hợp (đất, nước, gió, lửa). Con người là một tập hợp của năm nhóm (Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) do nghiệp duyên nhóm họp mà thành nên sẽ có lúc tan rã (chết). Sau khi chết, nếu bổn nghiệp vẫn còn thì lại thọ thân mới trong Lục đạo (Thiên, Nhân, Tu-la, Điạ ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh), gọi là Luân hồi. Do đó, chết không phải là hết mà chỉ là sự chấm dứt của một chu trình.

 

Do nghiệp báo không đồng nên có người sinh ra xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu độn, giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu, hạnh phúc hay đau khổ, v.v...Tuy nhiên con người có thể cải đổi được vận mạng phần nào bằng ý chí và nỗ lực cá nhân, cho nên có câu "Có Trời mà cũng có ta".

 

Nói chung thì làm người có sướng có khổ nên dễ tu hơn các đường khác. Người nào giữ được Tam qui và Ngũ giới thì chắc chắn sẽ được sanh làm người hạnh phúc giàu sang trong đời sau.

 

2) Thiên thừa: Trên cõi người có nhiều cõi trời (Dục, Sắc và Vô Sắc), nơi đó chúng sinh sống thảnh thơi sung sướng hơn chúng ta rất nhiều. Ở các cõi Trời, Dục giới và Sắc giới, chúng Tiên có thân thể trang nghiêm đẹp đẽ, thọ mạng dài lâu, cung điện rực rỡ, y vật thực khỏi lo, hưởng thú vui thắng diệu. Tuy nhiên đời sống của họ có giới hạn, khi hết phước rồi thì ngũ suy tướng hiện ra và họ phải chuyển kiếp đầu thai trong Sáu đường Luân hồi.

 

Cõi trời tuy sung sướng nhưng khó tu vì ít thấy khổ. Những người thế gian nếu hành được Thập thiện (xem chú thích ở cuối bài)   thì sau khi chết sẽ được sanh lên cõi trời để hưởng phước.

 

3) Nhị thừa (Thanh văn và Duyên giác): Các bậc nầy do có Trí huệ nên nhận thấy thân thể là bất tịnh, giả hợp và vô thường - không đáng ưa thích. Ngoài thân thể (Sắc), bốn uẩn (Thọ, Tưởng, Hành, Thức) còn lại cũng không có thực thể. Do đó các Ngài thấy cái Ta là không có thật, và chứng được Ngã không. Khi các Ngài chứng luôn Pháp không (thấy tất cả các pháp là không thật có) và trừ hết được tập khí Vô minh thì đắc quả La-hán, không còn sinh tử luân hồi.

 

4) Đại thừa và Tối thượng thừa:

 

Lên một bực cao hơn, các Bồ-tát Đại thừa thấy thân thể và vạn pháp là trò huyễn hóa, do tâm thức biến hiện - như người bịnh mắt thấy hoa đốm trong hư không. Do huyễn nên nói Có hay Không đều không đúng, chỉ tạm gọi là Giả có. Không sa vào chấp Thường của phàm phu, chấp Đoạn của ngoại đạo hay chấp Tổn giảm của Nhị thừa - nên Bồ-tát nương huyễn thân, tu pháp như huyễn, độ chúng sanh như huyễn và chứng Niết-bàn như huyễn.

 

Lên một tầng nữa, đến mức "Sự sự Vô ngại" thì Bồ-tát thấy thân mình và vũ trụ là một, vạn pháp không ngoài tâm mình. Đến đây thì lời nói không với tới được, gọi là không thể nghĩ bàn, cái nhìn của Phật.

 

C) Kết luận

 

Nói chung thì thân phận con người có mặt thật đáng chán, nhưng cũng có mặt đáng phấn khởi. Đáng chán vì bản chất cuộc đời là vô thường, khổ, không, vô ngã - và như đức Phật đã nói "Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước bốn biển". Nhưng cũng là đáng phấn khởi vì làm người dễ tu, và Đức Phật xác nhận là ai cũng có Phật tánh tròn đủ. Vả lại, các Đức Phật cũng thường chn giáng sanh trên thế giới Ta-bà nhiều đau khổ nầy. Tuy rằng có câu: "Thân người khó được, Phật pháp khó tìm". Nếu nay ta có đủ hai điều kiện nầy, thì thiết tưởng dù làm người cũng có thể nói là được nhiều diễm phúc rồi, và ta không nên bỏ lỡ cơ hội để tinh tấn tu hành giải thoát.

 

Thích Phước Thiệt - Từ Điển Phật Giáo Việt Anh – 29/6/2018

 

 
-----------

* Thập thiện

 

"Thập": mười

"Thiện": điều tốt, điều lành

 

"Thập thiện" nghĩa là "Mười điều lành", trái với Thập ác là Mười điều dữ của Ba nghiệp

(Thân Khẩu Ý), như sau đây:

 

A) Thân có thể phạm Ba điều dữ là:

     1- Sát sanh: giết hại sinh mạng người hay thú vật.

     2- Trộm cướp: đoạt lấy tài vật mà người ta không cho mình.

     3- Tà dâm: quan hệ tình dục không chánh đáng.

B) Khẩu có thể phạm Bốn điều dữ là:

     1- Vọng ngữ: nói dối, nói không đúng sự thật, lừa gạt người.

     2- Ỷ ngữ: nói lời tầm phào vô ích, lời trau chuốt gợi tình, lời tục tĩu, vv...

     3- Lưỡng thiệt: nói lưỡi hai chiều, nói lời chia rẽ khiến đôi bên ghét nhau.

     4- Ác khẩu: nói lời thô ác, mắng chửi hay nặng lời khiến người bị tổn thương.

C) Ý có thể phạm Ba điều dữ là:

     1- Tham lam: ham muốn quá nhiều, không biết đủ.

     2- Sân hận hay Ác ý, muốn làm hại người hay vật.

     3- Si mê hay Tà kiến: thấy sai, hiểu sai - như không tin Tam Bảo, không tin

         Nhơn quả, vv...

 

Người tu Thập thiện chẳng những không phạm Mười điều dữ nói trên, mà còn làm

ngược lại để lợi ích cho mình và chúng sanh khác, như sau đây:

 

A) Thân siêng tu ba điều lành:

     1) Không sát sanh mà còn phóng sanh, tức là cứu giúp người hay vật khiến cho

         được khỏi các tai nạn, sanh mạng đều được yên ổn.

     2) Không trộm cướp mà còn hành bố thí, hiến tặng tài vật hay công sức cho

         người cần được giúp đỡ.

     3) Không tà dâm mà còn cung kính với hàng phụ nữ.

B) Khẩu siêng tu bốn việc lành

     1) Không nói dối mà còn nói lời chơn thật, ngay thẳng.

     2) Không nói lời vô ích mà còn nói lời nhơn nghĩa đạo đức khiến người bỏ ác

         về lành.

     3) Không nói lời đâm thọc hay chia rẽ, mà còn nói lời hòa giải khiến người

         thông cảm và thương yêu nhau hơn.

     4) Không nói lời thô ác, mà còn nói lời dịu ngọt hiền lành khiến người nghe

         vui lòng.

C) Ý siêng tu ba điều lành

     1) Không tham lam mà còn buông xả Ngũ dục, ý thức rằng tất cả đều là giả

         tạm và vô thường.

     2) Không sân hận mà còn phát Bồ-đề tâm, thường xót thương và cứu hộ tất cả

         chúng sanh.

     3) Không si mê hay tà kiến mà còn luôn tu học theo Phật, siêng tu thiền quán

         để phát sanh Trí huệ chơn thật.

 

Quán Di-lặc Thượng sanh Đâu-suất thiên Kinh: "Dầu là người tại gia giữ Ngũ giới

hay Bát giới, dầu là người xuất gia giữ Cụ túc giới - nếu ai tu Thập thiện và thường

nhớ tưởng đến cảnh trời Đâu-suất (Skrt: Tusita) thì lúc mạng chung được vãng sanh

về cảnh đó mà làm đệ tử của đức Di-lặc, hưởng các cuộc khoái lạc ở cảnh trời ấy".

 

Quán Vô lượng thọ Kinh: "Muốn sanh về cõi Cực lạc của đức Phật A-di-đà, cần phải

tu Ba phước (Tam phước) như sau đây:

 

1) Hiếu dưỡng Cha mẹ, phụng sự Sư trưởng, có lòng lành chẳng giết sanh mạng,

    tu Mười điều lành (Thập thiện nghiệp).

2) Thọ trì Tam qui, đủ hết các giới (đã thọ), chẳng phạm oai nghi.

3) Phát tâm Bồ-đề, tin sâu Nhơn quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn người

    tu hành".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 26885)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 14380)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 5239)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
16/09/2020(Xem: 5758)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 7108)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 10870)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4740)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 14100)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8420)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]