Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu trích từ số 21-30 (Những Viên Ngọc Trai của Andrew)

01/05/201918:47(Xem: 3173)
Câu trích từ số 21-30 (Những Viên Ngọc Trai của Andrew)

Phat ngoc
Những Viên Ngọc Trai của Andrew

Nguyên bản Anh Ngữ: 
Dharma Teacher Acharya Andrew Williams  
Việt dịch:

Quảng Tịnh Kim Phương
***



Câu trích từ số 21-30

 

Câu trích 21: Hãy biết ơn và bày tỏ lòng tri ân đối với mọi người và mọi loài

Hãy biết ơn và bày tỏ lòng tri ân  đối với tất cả mọi người mà chúng ta có và không có, đối với tất cả những trải nghiệm cuộc sống trong quá khứ, hiện tại và tương lai, và đối với tất cả những cơ hội quý báu để cải thiện trí huệ và lòng từ bi mà cuộc đời này đã hiện hữu với chúng ta.

Hãy biết ơn và bày tỏ lòng tri ân đối với cha mẹ, bà con, những người thân thương và thầy cô của chúng ta. Đối với bạn bè, kẻ thù và những người xa lạ. Đối với tất cả chúng sinh và tất cả mọi loài.

Hãy biết ơn và bày tỏ lòng tri ân đối với Vô Lượng Phật, Pháp vô nhiễm và Tăng Già đức độ.

Chúng ta hãy biết ơn và bày tỏ lòng tri ân lẫn nhau và tất cả những gì chung quanh ta. Tôi cám ơn các bạn, tôi cảm kích các bạn. Chấp tay cung kính và cúi đầu.


Câu trích 22: Hãy tử tế với mình và những người khác. Để tử tế với mình, hãy tử tế với người khác. Để tử tế với người khác, hãy tử tế với chính mình.

Khi chúng ta tử tế với người khác, chúng ta sẽ là người có lợi lạc ngay tức khắc, bởi vì khi chúng ta tử tế, chúng ta tự trải nghiệm niềm vui và hạnh phúc tự nhiên và tâm hồn ta trở nên nhẹ nhàng và tĩnh lặng. Cũng vậy, người nhận được sự tử tế của chúng ta, hầu hết sẽ biết ơn và cảm kích.

Khi chúng ta làm lợi lạc cho chính mình bằng cách giảm đi những phiền não nhiễm ô và gia tăng chất lượng tinh thần tốt đẹp, những người khác chắc chắn cũng có lợi khi có sự hiện diện của chúng ta. Chúng ta càng thanh lọc thân tâm, chúng ta càng mang lại nhiều lợi lạc hơn.

Đây chỉ là vài ví dụ đơn giản mà chúng ta có thể tử tế với chính mình và những người khác như thế nào. Càng có nhiều sự tử tế trên thế giới này, thì thế giới này lại càng tốt hơn.

 

Câu trích 23: Hãy tử tế với chính bạn, hãy trầm tĩnh lại

 

Khi tâm của bạn trầm tĩnh và trong sáng, chúng ta sẽ bớt bối rối, lo lắng và bồn chồn, và vì thế mà có thể nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn, và có thể có những sự chọn lựa tốt hơn cái gì phải làm và cái gì không phải làm trong cuộc sống. Chúng ta sẽ có thể đối phó với những thay đổi và khó khăn trong cuộc sống dễ dàng và có hiệu quả hơn.

 

Để cho tâm tĩnh lặng, đầu tiên chúng ta phải suy nghĩ, hành động và nói có đạo lý và vì vậy sẽ tránh được hối tiếc và lỗi lầm. Tâm không hối tiếc và ân hận có ích và chín mùi cho viêc thực hành thiền, mà cho phép chúng ta phát triển trí tuệ chân thật bên trong bản thể của tâm và bản thể sự thật.

 

Vì vậy chúng ta hãy để cho tâm tĩnh lặng và tử tế với chính mình.

 

Câu trích 24: Hãy như là cây sồi. Hãy khiêm tốn, kiên định và uyển chuyển

 

Nếu chúng ta duy trì tâm khiêm tốn, chúng ta sẽ không bị khuất phục bởi sự tự cao thái quá, và vì vậy sẽ không bị kiểm soát bởi sự kiêu căng ích kỷ, thiếu tự trọng và sự hơn thua không lành mạnh.

 

Nếu chúng ta duy trì tâm kiên định, chúng ta sẽ không bị quấy nhiễu bởi sự lẫn lộn, phân tán và quên lãng, và sẽ nhận thức được mọi thứ rõ ràng hơn và có những sự chọn lựa tốt hơn trong cuộc sống.

 

Nếu chúng ta duy trì tâm uyển chuyển, chúng ta sẽ có thể đối phó với những thay đổi và những khó khăn trong cuộc sống có hiệu quả và có tác dụng hơn.

 

Giống như một cây sồi lớn khỏe mạnh,  có rễ sâu, mạnh và mềm dẽo, tương tự như vậy chúng ta nên để đạo đức ăn sâu tận gốc rễ và duy trì tâm khiêm tốn, kiên định và uyển chuyển.

 

Câu trích 25: Hãy giống cây sồi. Không có cơn gió nào có thể đốn ngã bạn

 

Nếu chúng ta duy trì tâm tốt đẹp có đạo đức tận gốc và khiêm tốn, kiên định và uyển chuyển, chúng ta sẽ không bị đẩy xa khỏi con đường tu tập tâm linh bởi những cơn gió của sự thay đổi, không thoả mãn và tà kiến.

 

Cũng vậy, chúng ta sẽ không bị “bát phong” tức là tám ngọn gió trần gian (eight worldly concerns) thổi tung, đó là: được và mất, khen và chê, vinh và nhục, vui và buồn. Chúng ta sẽ hài lòng và thoả mãn hơn, giống như cây sồi lớn khỏe mạnh.

 

Câu trích 26: Hãy chủ động chứ không phải phản ứng lại

 

Hãy chủ động bằng cách từ bỏ ngay việc bất thiện, chỉ bằng cách buông xả tự nhiên. Khi những cảm giác và ý nghĩ bất thiện khởi lên, hãy nhận biết chúng là như thế và đừng dính mắc vào chúng, và chúng sẽ tan biến một cách tự nhiên.

 

Đừng phản ứng bằng cách dính mắt vào chúng và đi theo chúng, hay tranh đấu chống lại và biến chúng thành cái gì đó to tát hơn chúng thật sự. Bởi vì chúng chỉ đơn thuần là những phản ứng theo thói quen. Vì vậy đừng phản ứng đối với những phản ứng, và v.v… và v.v…

 

Hãy chủ động và duy trì trạng thái tâm yên bình.

 

Câu trích 27: Hãy là nước khi gặp lửa, chứ không phải là xăng khi gặp lửa

 

Cũng giống như nước mới dập tắt ngọn lửa, bất cứ khi nào có rắc rối, bất đồng hay có vấn đề xảy ra khi chúng ta giao tiếp với người khác, chúng ta nên có cách giải quyết vấn đề. Hãy gieo nhân hòa ái và cảm thông.

 

Cũng giống như chúng ta nên tránh thêm dầu vào lửa, bởi vì dầu sẽ khiến lửa càng tệ hại hơn, chúng ta nên tránh thêm thắt đối với bất cứ rắc rối, bất đồng hay vấn đề nào xảy ra khi chúng ta giao tiếp với người khác. Đừng gieo nhân để tạo nên xung đột và hiểu lầm nhiều hơn.

 

Có đôi lúc chúng ta có thể đơn giản đồng thuận với những bất đồng một cách nhẹ nhàng.

 

Chúng ta cũng nên làm tương tự khi đối phó với chính tâm của mình. Khi những ý nghĩ hay thái độ bất thiện khởi lên trong tâm, hãy loại bỏ chúng, hãy buông  bỏ chúng, tránh thêm thắt đối với chúng.

 

Hãy thêm nước thanh tịnh của trí tuệ, không dính mắt và lòng tốt, và hãy dập tắt những ngọn lửa bất tịnh của vô minh, tham và sân. Hãy thanh lọc tâm và tất cả  sẽ tốt đẹp.

 

Câu trích 28: Có định kiến có nghĩa là chúng ta có thành kiến đối với ai hay đối với cái gì đó, và vì vậy chúng ta phán đoán dựa trên sự vô minh

 

Hiện nay khả năng chúng ta để nhận thức các thứ  rõ ràng rất bị hạn chế, vì vậy chúng ta không nên phán đoán các việc hay người khác dựa trên nhận thức giới hạn của chúng ta.

 

Đức Phật đã dạy rằng tất cả chúng sinh đều có những mức độ hiểu biết giới hạn và khác biệt về điều này hay điều khác, và thậm chí nếu chúng ta tập trung cùng một thứ, chúng ta cũng sẽ nhận thức điều đó theo cách nhìn của riêng mình, từ quan điểm giới hạn của riêng mình.

 

Chúng ta có khuynh hướng nhận thức các thứ và về người khác dựa trên những ý tưởng đã hình thành trước và trải nghiệm trong quá khứ. Điều đó như thể chúng ta phán đoán cả đại dương dựa trên một phần nhỏ của đại dương mà chúng ta nghĩ là chúng ta biết. Cả bầu trời chỉ dựa trên một vài đám mây.

 

Vì vậy chúng ta cẩn thận không nên có định kiến về người khác hay bất cứ điều gì. Chúng ta nên từ bỏ những thành kiến của mình và phát triển tâm bình thản không phân biệt. Điều này giúp chúng ta cải thiện sự trong sáng của tâm và cho tâm mình không bị che lấp bởi những định kiến, vì vậy chúng ta có thể nhận thức được chính mình, những người khác và mọi việc được rõ ràng và sáng hơn mà không có định kiến.

 

Câu trích 29: Những lợi ích của thiền hiện nay đã được biết đến rộng rãi và thực hành thiền cũng đã trở thành phần xu hướng chủ đạo ở nhiều nơi trên thế giới. Chẳng hạn, ở Úc, việc hành thiền trở nên phổ biến tại các cơ sở giáo dục khác nhau như các trường tiểu học, trung học và đại học. Cũng vậy, nhiều bác sĩ hành nghề cũng khuyến khích bệnh nhân của họ tập thiền để giúp ích cho quá trình hồi phục. Đây chỉ là vài ví dụ về việc hành thiền đã trở thành  văn hóa chính mạch của chúng ta như thế nào.

 

Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Nếu mỗi tám năm, thế giới chúng ta được học thiền, chúng ta sẽ loại bỏ bạo động trong vòng một thế hệ.” Nếu cả thế giới hành thiền, thì sẽ không có chiến tranh mà chỉ có hoà bình.

 

Thiền giúp chúng ta biết được tâm của mình, cho chúng ta nhận biết được những trạng thái tâm có hại mà chúng ta cần loại bỏ, cũng như những trạng thái tâm có ích mà chúng ta cần tiếp nhận, nuôi dưỡng và hoàn hảo. Thiền giúp chúng ta trầm tĩnh, rõ ràng, kiên định và hài lòng, và giúp cho chúng ta giao tiếp với người khác và tất cả bản thể theo phương cách trong sáng, hài hoà và cảm thông.

 

Vì vậy việc hành thiền không những có lợi cho cá nhân người thực hành mà cho tất cả những người mà chúng ta tiếp xúc. Thiền có mục đích để thấu hiểu bản chất thật của tâm. Thiền biểu lộ thế giới tâm lý nội tâm. Thiền nhìn thấu suốt tri giác thiển cận, thông thường bị che khuất bản chất thật. Với việc hành thiền các bạn có thể hiều thực tính của bản ngã và các hiện tượng khác, bởi vì nếu bạn hiểu được tâm của chính mình, bạn sẽ hiểu được mọi thứ.

 

Không có thiền chúng ta không thể nhận thức được sự thật, bởi vì tâm chúng ta sẽ vẫn đục với những ý tưởng và cảm xúc lẫn lộn, và sẽ trở nên bối rối và bị đánh lừa càng lúc càng nhiều hơn. Vì vậy, mục đích của thiền là làm giảm bớt những ưu phiền bị đánh lừa của tâm ta và dần dần loại bỏ chúng tận gốc rễ. 

 

Thiền làm cho tâm của ta nhạy bén, mạnh mẽ và rõ ràng hơn, giúp ta giải quyết vấn đề của riêng mình một cách khéo léo, cũng như có thể có năng lực tâm để có thể thay đổi một cách sâu sắc cuộc đời mình. Chúng ta sẽ trở nên lành mạnh và hạnh phúc hơn, bởi vì điều đó đã được chứng thực rằng có sự liên hệ mạnh mẽ giữa thiền, sức khoẻ tâm lý và thể xác. Chỉ có thông qua việc hành thiền mà chúng ta có thể thay đổi năng lực định giới hạn trở thành năng lực định vô hạn.

 

Câu trích 30: Bất cứ khi nào bạn nói, hãy nói khéo léo 

 

Khi chúng ta nói, hãy nói khéo léo. Hãy nhớ rằng mục đích của lời nói là giao tiếp với nhau, và chúng ta nên nói với tâm thanh tịnh, cũng như rõ ràng và chính xác càng nhiều càng tốt.

 

Chúng ta nên tránh nói dối, phỉ báng, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, và nói chuyện phiếm. Bởi vì nói như thế chỉ có thể dẫn đến hiểu lầm, hỗn loạn và gây khó khăn cho mình và những người khác.

 

Chúng ta nên nói lời chân thật, nói để tạo sự đoàn kết, nói nhẹ nhàng và tham dự vào cuộc đàm đạo có ý nghĩa. Nói theo phương pháp này cho phép chúng ta và những người khác mà mình đang trò chuyện có cơ hội tránh những hiểu lầm và bối rối, và phát triển sự hiểu biết chân thật dựa trên tình bằng hữu và thiện ý.

 

Vì vậy hãy tránh nói xấu, có hại và vô ích và chỉ nói tốt, có lợi và có ích với tâm thanh tịnh.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/08/2018(Xem: 6438)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
23/05/2018(Xem: 3668)
Bài viết này để trả lời một vài câu hỏi nhận được gần đây. Nếu giúp được một số độc giả, xin hồi hướng công đức từ bài viết để Phật pháp trường tồn. Trường hợp các câu trả lời bất toàn hay sơ sót, người viết, với vốn học và vốn tu đều kém cỏi, xin lắng nghe quý tôn đức chỉ dạy thêm.
10/03/2018(Xem: 8539)
To give the briefest conclusion that I can think of to the question- 'Do you think that sectarian diversity affects the stability of Buddhism as a whole?', I would have to say, 'Yes' and 'No'. My intention here is not to give a definitive answer, but to give readers 'food for thought', to enable each of us to be responsible and maintain pure intentions, to think for ourselves and develop genuine wisdom and compassion. In the spirit of the Dharma, rather than dwelling on any possible problems, we should mainly focus on solutions to any such problems. With the hope of maintaining the integrity and purity of Buddhism in this world.
03/02/2018(Xem: 14280)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 13599)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
08/12/2017(Xem: 15642)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
19/11/2017(Xem: 6969)
Tình, Tưởng. Cả hai đều thuộc về phạm trù của Tâm con người, không có ở trong các loài súc sinh, mặc dù súc sinh có cái biết bằng Giác (giác hồn, sinh hồn) nhưng, không tinh khôn bằng loài người, do Phật tánh bị chìm sâu bởi thú tính cao vời. Chỉ có loài người, Phật tánh được hiện hữu ở ba cấp thượng, trung, hạ, cho nên loài người là linh vật, chúa tể của muôn loài có khả năng dời núi, lấp sông do bởi cái tâm có tánh giác tinh anh Phật, Bồ Tát, Thánh, Phàm. Nói khác hơn, con người chỉ có một tâm nhưng, nó tự chia ra hai phần : Chủ tể và phụ tể. Nói theo Duy Thức Học; là Tâm vương, Tâm sở. Vai trò của Tâm vương là chủ động tạo tác ra vô số lời nói, hành động thiện, ác. Vai trò Tâm sở là duy trì, bảo vệ những thành quả (sở hữu) mà cũng chính nó tức tâm vương đã sáng tạo ra. Nghĩa là cái Tâm con người, nó vừa tạo tác ra các nghiệp, lại vừa đóng vai
19/11/2017(Xem: 6013)
Con người trong mọi giới ngoài xã hội hiện nay tại các nước có Phật Giáo như Việt Nam, đến chùa xin Quy Y Tam Bảo được thấy rõ, là một tryền thống do con người tự chọn cho mình con đường giải thoát giống như ngày xưa lúc Phật còn tại thế, do tự nhận thức : Đạo Phật là con đường giải thoát, chứ Đức Phật từ ngàn xưa và chư Tăng rại các nước trên thế giới có Phật Giáo hiện hữu hôm nay, không khuyên mọi người phải và nên Quy Y Tam Bảo. Bởi vì đạo Phật, là đạo tự giác, tức là để cho con người tự do tìm hiểu giáo lý Phật. Sau đó thấy được đạo Phật là con đường giải thoát sinh tử khổ đau thực sự mà phương tiện là giáo lý, qua quá trình tự tu, tự giác ngộ, thì mới phát nguyện xin quy y Tam Bảo. Qua đây cho ta thấy đạo Phật không phải là đạo cứu rỗi, bang phước giáng họa cho bất cứ ai.
19/11/2017(Xem: 19231)
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm phương tiện, Đức Phật nói lời khẳng định với Bồ Tát Xá Lợi Phất : “Này Xá Lợi Phất, chư Phật chỉ vì một việc trọng đại lớn duy nhất mà thị hiện ra nơi đời (cõi người), đó là “khai thị chúng sanh, ngộ nhập tri kiến Phật”.
19/11/2017(Xem: 5945)
Trên mặt trái đất đã và đang có núi cao, đồi thấp, suối cạn, ghềnh thác, đất, cát, đá cuội, ao, hồ, sông dài, biển rộng, bầu trời, mây bay, gió thổi, nắng, mưa, bão tố, không khí nóng, mát, lạnh lẻo, các loại cỏ, hoa, cây cối…Đó là chúng sanh không có tình. Muôn loài Súc Vật lớn, nhỏ trên khô, dưới nước, và các chủng loại Con Người. Đó là chúng sanh có tình. Tất cả, đều do vô số Duyên giả hợp lại mà có bản thể, chứ mỗi loài không thể tự có thân (không tự thể), như đã được nói rõ ở bài “Khai Thị Chúng Sanh, Ngộ Nhập Tri kiến Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567