Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

28/02/201621:03(Xem: 4071)
Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất
TỔNG QUAN 
VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính


Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

 

Lần giảng dạy đầu tiên này được biết như đợt lần chuyển pháp luân thứ nhất, Ngài đã thuyết về căn bản của Tứ Diệu Đế. Như hầu hết chúng ta có thể biết, bốn chân lý cao quý là chân lý về khổ đau [Khổ Đế], chân lý về nguyên nhân của nó [Tập Đế], chân lý về sự chấm dứt [Diệt Đế], và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau [Đạo Đế].

Khi Ngài dạy về Tứ Diệu Đế, theo những kinh điển tìm thấy qua các phiên bản tiếng Tây Tạng, Ngài dạy chúng trong phạm vi của ba nhân tố: bản chất của những chân lý này, các chức năng của chúng và hiệu quả của chúng.

Tứ Diệu Đế thật sự rất thậm thâm vì toàn thể giáo thuyết Phật giáo có thể thể hiện trong chúng. Những gì chúng ta tìm thấy hạnh phúc và hạnh phúc là tác động của một nguyên nhân và những gì chúng ta không muốn là khổ đau và khổ đau cũng có nguyên nhân của chính nó.

Trong quan điểm về sự quan trọng của bốn chân lý cao quý, tôi thường nhận xét rằng cả khái niệm của Phật giáo về duyên khởi lẫn giới hạnh Phật giáo về việc không tổn hại nhấn mạnh về đạo lý bất bạo động. Lý do đơn giản cho điều này là sự khổ đau ấy mang đến những điều không mong muốn qua nguyên nhân của nó, mà điều ấy một cách căn bản là vô minh của chính chúng ta và tâm thức không thuần hóa của chúng ta. Nếu muốn xa lánh khổ đau, chúng ta phải kiểm soát chính mình khỏi những hành vi tiêu cực là những điều sẽ cho sinh khởi khổ đau. Và bởi vì khổ đau liên hệ đến những nguyên nhân của nó, khái niệm duyên sinh phát khởi. Những hậu quả tùy thuộc trên những nguyên nhân và nếu chúng ta không muốn những hậu quả này, chúng ta phải làm chấm dứt những nguyên nhân của nó.

Vì thế, trong Tứ Diệu Đế, chúng ta thấy hai hệ thống nhân và duyên: khổ đau là sự tác động và cội nguồn của nó là nguyên nhân. Trong cùng cách như thế, chấm dứt hay diệt tận là an bình và đạo pháp đưa đến nó là nguyên nhân của sự an bình ấy.

Hạnh phúc mà chúng ta tìm cầu có thể được đạt được bằng việc tiến hành rèn luyện và chuyển hóa trong tâm thức của chúng ta bằng sự tịnh hóa tâm thức chúng ta. Sự tịnh hóa tâm thức chúng ta là có thể khi chúng ta tiêu trừ vô minh si ám, vốn là gốc rể của tất cả các cảm xúc phiền não, và qua đó, chúng ta có thể đạt đến thể trạng diệt tận mà đấy là sự an hòa và hạnh phúc chân thật. Sự diệt tận đó chỉ có thể đạt đến khi chúng ta có khả năng thực chứng được bản tính của mọi hiện tượng[1], thâm nhập tính bản nhiên của thực tại, và để làm điều này, sự rèn luyện về trí trí huệ là quan trọng. Khi điều ấy phối hợp với khả năng nhất tâm chúng ta sẽ có thể chuyển tất cả năng lượng và sự chú tâm của chúng ta lên một đối tượng hay công đức duy nhất. Do vậy, sự rèn luyện trong sự tập trung ở đây, và để cho sự rèn luyện tập trung và trí huệ thành công đỏi hỏi một nền tảng thật vững vàng của giới đức, vì thể sự thực tập giới đức hay giới luật thể hiện ở đây.

Giới

Giống như có ba loại rèn luyện tu tập – trong trí huệ, tập trung, và giới đức [tuệ, định, và giới] kinh điển Phật giáo bao hàm ba sự phân chia – luật tạng, luận tạng, và kinh tạng.

Những hành giả cả nam và nữ có một sự bình đẳng cần thiết để thực hành ba sự rèn luyện này, mặc dù có những sự khác nhau đối với những giới nguyện mà họ thọ lĩnh.

Nền tảng căn bản của sự tu tập giới đức là sự hạn chế khỏi mười điều bất thiện: ba thuộc về thân, bốn thuộc về khẩu, và ba thuộc về ý.

Ba Hành Vi Thể Chất Không Đạo đức là:

1. Cướp đi mạng sống của một chúng sinh, từ một côn trùng cho đến một con người.

2. Trộm cắp, lấy tài sản của người khác mà không được phép, bất chấp giá trị của nó, hay quý vị có tự thân tiến hành điều hay không [tổ chức cho người khác làm].

3. Tà dâm, hành vi tình dục bất chính.

Bốn Hành Vi Nói Năng Không Đạo đức là:

4. Nói dối, lừa gạt người khác qua lời nói hay cử chỉ [vọng ngữ].

5. Nói lời gây chia rẻ, tạo nên sự bất hòa bằng việc làm cho những ai đó trong sự đồng thuận đưa đến bất đồng hay những người trong sự bất đồng đi đến bất đồng sâu xa hơn [lưỡng thiệt].

6. Nói lời hung dữ, độc ác ngược đãi người khác [ác khẩu].

7. Nói lời vô nghĩa, nói về những điều dại dột bị thúc đẩy bởi tham dục và v.v…

Ba Hành Vi Bất Thiện Về Ý:

8. Tham, thèm muốn sở hữu những gì thuộc về của người khác.

9. Sân hận, mong muốn làm tổn thương kẻ khác, thể hiện nó trong những phương cách lớn hoặc nhỏ.

10. Si, quan điểm sai lầm, nhìn những việc hiện hữu, chẳng hạn như tái sinh, nhân quả, hay Tam Bảo như không có.

Giới đức được thực hành bởi những người tuân theo cung cách đời sống tu sĩ được xác định là những nguyên tắc giải thoát cá nhân – Biệt giải thoát giới[2]. Ở Ấn Độ, có bốn trường phái chính phổ thông nhất, sau này phân chia làm mười tám bộ phái, mỗi bộ phái có giới luật riêng của họ, kinh văn nguyên thủy được thuyết giảng bởi đức Phật, những điều ấy trở thành các hướng dẫn cho đời sống của tu sĩ. Sự thực hành tuân thủ trong những tu viện Tây Tạng theo truyền thống Căn Bản Thuyết Nhất Thuyết Hữu[3].

Trong ấy 253 giới điều được trao truyền cho những tu sĩ cụ túc giới hay Tỳ-kheo. Trong truyền thống Nguyên Thủy thệ nguyện giải thoát cá nhân bao gồm 227 giới điều.

Nhằm cung cấp cho chúng ta một khí cụ của chính niệm và tỉnh thức, sự thực tập về giới đức bảo vệ chúng ta khỏi theo đuổi những hành vi bất thiện. Do thế, nó là nền tảng của đạo pháp Phật giáo. Vấn đề thứ hai là thiền tập, điều này hướng những hành giả đến sự thực tập thứ hai được liên hệ với tập trung.

Tập Trung Tinh Thần

Khi chúng ta nói về thiền tập trong ý nghĩa chung của Phật giáo, có hai loại – thiền định [chỉ] và thiền phân tích [quán]. Loại đầu thiền chỉ là sự thực tập tịch tĩnh hay nhất tâm và loại thứ hai là thiền quán để thực hành phân tích. Trong cả hai trường hợp, điều rất quan trọng để có một nền tảng vững vàng của chính niệm và tỉnh thức, được cung cấp bởi sự thực hành giới luật. Hai nhân tố này, chính niệm và tỉnh thức, là quan trọng không chỉ trong thiền tập, mà cũng quan trọng trong đời sống hằng ngày.

Chúng ta nói về nhiều trạng thái của thiền tập, chẳng hạn như những trạng thái của sắc và vô sắc. Những trạng thái của sắc được phân biệt trên căn bản của những chi của chúng, trái lại những trạng thái vô sắc được phân biệt trên căn bản bản chất của đối tượng của thiền chỉ.

Chúng ta tiến hành tu tập giới đức như nền tảng và tu tập tập trung như một nhân tố bổ sung, một khí cụ, để làm cho tâm thức phục vụ hữu hiệu. Vì thế, sau này, khi kết hợp với tu tập trí huệ, chúng ta được trang bị với một tâm thức nhất niệm, mà chúng ta có thể hướng trực tiếp tất cả các sự chú tâm và năng lượng của mình đến đối tượng được lựa chọn. Trong tu tập trí huệ, chúng ta quán chiếu về vô ngã hay tính Không của các hiện tượng, mà điều ấy cung ứng như một loại đối trị thật sự đến những cảm xúc phiền não.

 tongquan-04

Tháp Rajgir thuộc địa phận Nalanda thuộc bang Bihar Ấn Độ

Ba mươi bảy Bồ-đề đạo phẩm [Ba mươi bảy phẩm trợ đạo] [4]

Cấu trúc tổng quát của con đường Phật giáo, như được trình bày trong lần chuyển pháp luân thứ nhất, bao hàm ba mươi Bồ-đề đạo phẩm. Những điều này bắt đầu với bốn lĩnh vực chính niệm [tứ niệm xứ], điều liên hệ đến sự chính niệm về thân thể, cảm giác, tâm thức, và các pháp. Tuy thế, ở đây, tỉnh thức là thiền tập trên những bản chất khổ đau của luân hồi bằng các phương tiện mà qua đó hành giả phát triển một quyết tâm thật sự để giải thoát khỏi vòng sinh tử này.

Tiếp theo là bốn sự từ bỏ hoàn toàn [Tứ chính cần], bời vì khi các hành giả phát triển một quyết tâm chân thành để được giải thoát qua sự thực tập bốn sự tỉnh thức, họ dấn thân với một phương cách của đời sống mà trong ấy họ từ bỏ những nguyên nhân của khổ đau tương lai và phát triển những nguyên nhân của hạnh phúc tương lai.

Vì việc vượt thắng tất cả các hành vi tiêu cực và cảm xúc phiền não và việc gia tăng các nhân tố tích cực trong tâm thức chúng ta, những điều được gọi một cách kỹ thuật là tầng lớp của những pháp thanh tịnh, có thể được đạt được chỉ khi chúng ta có một tâm thức thật tập trung, cho nên hiện hữu những điều tiếp theo được gọi là bốn nhân tố của năng lực kỳ diệu [tứ như ý túc].

Tiếp theo những gì được biết như năm bản năng [ngũ căn], năm năng lực [ngũ lực], tám con đường cao quý [bát chính đạo], và bảy chi [thất giác chi] của lộ trình giác ngộ.

Đây là cấu trúc chung của lộ trình Phật giáo như được biết đến trong lần chuyển pháp luân đầu tiên. Phật giáo được tu tập trong truyền thống Tây Tạng hoàn toàn hòa hợp chặt chẽ với những đặc trưng này của giáo lý Đạo Phật.



[1] Các hiện tượng này bao gồm cả các hiện tượng thuộc về tâm thức, con người, chúng sinh, hay sự vật. Từ đây về sau chữ pháp sẽ có thể được dùng thay cho chữ hiện tượng và sẽ nêu rõ nếu đó là hiện tượng chỉ dành cho riêng một loại đối tượng nào đó.

[2] Tiếng Phạn là pratimokṣa nhấn mạnh việc giới hạn hành vi hay ứng xử để tránh gây hại cho chúng sinh khác. Giới là một trong 3 bộ phận quan trọng nhất của Phật giáo (hai bộ phận kia là Định và Tuệ hợp thành Tam Vô Lậu Học). Thành tựu trong việc trì giới sẽ dẫn đến giải thoát cho cá nhân hành giả. Theo Phật giáo Tây Tạng có bảy loại phân giới tùy theo đối tượng là:

Tì-kheo giới [trọng giới], tì-kheo-ni giới, nam sa-di giới (shramanera), nữ sa-di giới (shramanerika), giới dành cho nữ sa-di chuẩn bị tăng cấp thành ti-kheo ni (shikshamana), nam cư sĩ giới [ưu-bà-tắc] (upasaka) và nữ cư sĩ giới [ưu-bà-di] (upasika). Ngoài ra, còn ló loại giới giữ trong một ngày cho cư sĩ (ashtangopavasa shiksha).

"Pratimoksha vows". Rigpa Shedra. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Pratimoksha_vows>. Truy cập 16/08/2010.

[3] Còn gọi là Thuyết Nhất Thiết Hữu (sarvāstivādin), là một bộ phái Phật giáo cho rằng mọi sự đều có, đều tồn tại [nhất thiết hữu] mà Phạn ngữ viết là “sarvam asti”. Đây là một nhánh của tách ra từ Thượng toạ bộ (sthaviravādin) dưới thời vua A-dục. Giáo phái này quan niệm là tất cả, hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện hữu đồng thời. Quan điểm của bộ này được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại thừa. Xem thêm chi tiết :

"Thuyết nhất thiết hữu bộ". Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt_nh%E1%BA%A5t_thi%E1%BA%BFt_h%E1%BB%AFu_b%E1%BB%99>. Truy cập 16/08/2010.

[4] Xem thêm chi tiết về 37 Bồ-đề Đạo Phẩm:

"Tam thập thất bồ-đề phần". Wikipedia.

<http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_th%E1%BA%ADp_th%E1%BA%A5t_b%E1%BB%93-%C4%91%E1%BB%81_ph%E1%BA%A7n>. Truy cập 26/08/2010.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2015(Xem: 9563)
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu tự hỏi tại sao bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung, Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó.
24/05/2015(Xem: 11671)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
20/03/2015(Xem: 7598)
Đạo Phật là đạo từ bi vì thế là người con Phật, chúng ta phải tu tâm từ bi, trưởng dưỡng tâm từ bi trong cuộc sống mỗi ngày vì tâm từ là cội nguồn của mọi thiện nghiệp, là Phật tánh của chúng sanh. Điều này được Đức Phật thuyết trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai [1, tr.520].
25/02/2015(Xem: 9292)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 14585)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 6222)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5747)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 5042)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9762)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5666)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]