Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên

11/02/201608:32(Xem: 9753)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên
       12 nhan duyen 2


Suy nghĩ về
Mười Hai Nhân Duyên
Trần Tuấn Mẫn

 

Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.

 

Đoạn kinh trên giảng về lý duyên khởi, áp dụng trong việc nêu lên nguyên nhân, trạng thái và sự vận hành nội tại của khổ. Truyền thuyết kể, Thái tử Tất-đạt-đa cùng đoàn tùy tùng qua bốn cổng thành. Tại hai cổng cuối, Ngài trông thấy một xác chết, rồi một vị Sa-môn; từ đó Ngài suy nghĩ và quyết tâm xuất gia để sau cùng thành Phật, bậc Giải thoát. Vậy động cơ trước nhất khiến Ngài xuất gia là để giải quyết cái chết. Sau khi nói lên truyền thống chứng ngộ của sáu vị Cổ Phật, đến phần Đức Phật Thích-ca, Ngài dạy, “Thế giới này… không biết sự xuất ly già chết, thoát khỏi già chết”. Và Ngài dạy tiếp, “Rồi này các Tỳ-kheo, ta lại suy nghĩ như sau: ‘Cái gì có mặt thì già chết có mặt?... Do sanh có mặt nên già chết có mặt, do duyên sanh nên già chết sanh khởi’.”. Và Ngài tiếp tục quán sát cho đến “do duyên vô minh có mặt nên hành có mặt”. Có lẽ để dễ hiểu hơn, ta hãy xét sự quán sát này, tức từ già chết mà đi ngược lên.

 

Tại sao già chết có mặt? Hiển nhiên là do sự sanh ra; nếu ta không sanh ra thì ta không già chết. Tại sao có sự sanh? Vì có một cảnh giới, một môi trường có sự sống (hữu, tam giới) thì mới có sự sanh. Tại sao có thế giới, có các cảnh giới (hữu)? Do vì ta chấp thủ, ta nắm giữ (thủ), cho là hay, là thật dù thế giới này là ảo, là không thật. Tại sao có sự chấp thủ? Do vì ta ưa thích, ham muốn (ái) nên mới giữ gìn, chấp nắm thứ ta ưa thích; ngay cả sự ghét bỏ cũng là thể hiện sự ưa thích của ta đối với đối tượng trái ngược. Do đâu có ái? Do vì ta thọ nhận, cảm nhận (thọ) những thứ ta cho là đáng yêu (và quên, bỏ qua những gì ta không ưa thích). Tại sao có sự cảm nhận, thọ nhận? Do vì ta tiếp xúc (xúc) với ngoại cảnh. Tại sao có sự tiếp xúc? Vì ta có các quan năng tiếp xúc với ngoại cảnh là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý (lục nhập, sáu xứ) tiếp xúc với các môi trường (xứ) liên hệ với sáu quan năng ấy. Tại sao có sáu xứ? Là do thành phần của toàn bộ con người của ta đang sống (vật chất và tâm lý – danh sắc). Tại sao có các thành phần tâm lý, vật lý (danh sắc) gồm trong con người? Đó là do cái biết (thức). Cái biết, hay thức, ở đây là vọng thức, là đương thể, nó tạo ra đối tượng để làm nội dung cho chính nó. Nói như vậy thì cũng chính danh sắc tạo nên thức. Danh sắc và thức là một (xem phần sau). Do đâu mà có thức? Đấy là do sự vận hành, hành động của thân, khẩu, ý, của ngũ uẩn tạo nên nghiệp (hành). Do đâu mà có hành? Đấy là do vô minh, u tối, mê muội từ vô thủy, như một sức mạnh tạo ra sự vận động, hành động, hành. Từ đó, mười hai nhân duyên được sắp xếp theo thứ tự “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, … sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não”.  Ta cũng dễ dàng theo dõi lời dạy tiếp theo của Đức Phật: “Do vô minh diệt, hành diệt; do hành diệt, thức diệt; … do sanh diệt, già chết, sầu, bi khổ, ưu, não diệt”, hay “Do sanh diệt, già chết diệt; do hữu diệt, sanh diệt; …; do vô minh diệt, hành diệt”.

 

Thực ra, cả mười hai nhân duyên đều gồm một khối, khối khổ; là con người đang khổ, đang sống trong vòng luân hồi. Mười hai nhân duyên không rời nhau, hiện hữu, vận hành cùng lúc. Một chi phần xuất hiện thì mười một chi phần kia đồng thời xuất hiện; một chi phần tiêu diệt thì mười một chi phần kia đồng thời tiêu diệt. Mười hai nhân duyên là khổ, tức mười hai nhân duyên cũng là Tập đế của Tứ đế, tức là Ái. Ái lại là chi phần thứ tám của mười hai nhân duyên. Để dứt khổ, người ta khó tu tập để đoạn diệt vô minh, hành, thức…,vì đấy là trạng thái đã rồi, đang vận hành trong mỗi con người (khó diệt vô minh vì đang vô minh; khó diệt già chết vì đã sanh ra). Ái cũng vậy, nhưng người ta có thể giảm trừ ái dần dần cho đến khi diệt hẳn ái.

 

Cũng trong phẩm Phật-đà của Tương ưng bộ, Đức Phật dạy: “Do ly tham mà đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt;…; do sanh diệt nên già chết, sầu, bi khổ, ưu, não diệt”. Vậy, ái cũng là nguyên nhân của vô minh nên ly tham (ái diệt) thì vô minh diệt. Vô minh diệt thì hành diệt, v.v. Và mười hai chi phần thực ra cũng chỉ là một như đã nói.

 

Ta cũng biết rằng mọi sự vật, sự kiện, hiện tượng là do nhiều, do vô số nguyên nhân (gọi là nhân, duyên, nhân duyên; và nhân cũng chính là duyên, hay ngược lại, duyên là nhân, tùy quan điểm của chủ thể nhận định). Do đó, con số 12 chi phần trên cũng không nhất thiết là mười hai; và việc phân chia số lượng, thứ tự… còn mang tính cách của biện pháp, hay phương pháp sư phạm, dù đây là biện pháp, phương pháp siêu việt của bậc Toàn Trí.

 

Thật vậy, không phải lúc nào Đức Phật cũng nêu đúng 12 chi phần trên; có khi ít hơn, có khi nhiều hơn; và thứ tự các chi phần cũng có thay đổi. Trong Tương ưng bộ, Đại phẩm thứ bảy, Đức Phật dạy, “Do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi”, và “Do danh sắc không có mặt, thức không hiện hữu. Do danh sắc diệt nên thức diệt”. Trong kinh Đại duyên của Trường bộ, Đức Phật dạy, “Này A-nan, nếu có ai hỏi thức do duyên gì thì hãy đáp thức do duyên danh sắc”. Vậy thức và danh sắc có thể hoán đổi vị trí. Đức Phật còn dạy “Sanh y (sanh) lấy ái làm nhân, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm hiện hữu”. Tức là ái là nguyên nhân của sanh chứ không phải chỉ có hữu mới là nguyên nhân của sanh. Ngài dạy tiếp, “…; do duyên sanh, lão tử sanh; do duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh”. Ở đây, sầu, bi, khổ, ưu, não vốn cùng với lão tử là một chi phần lại trở thành hai chi phần riêng. Trong kinh Đại duyên, Ngài còn dạy, “Này A-nan, do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, cầu tìm sanh; do duyên cầu tìm, lợi sanh; do duyên lợi, quyết định sanh; do duyên quyết định, tham dục sanh; v.v.”, và “Do duyên ý và các pháp, thức khởi lên; do ba cái tụ hội nên có xúc; do duyên xúc nên có thọ; do duyên thọ nên có ái. Này các Tỳ-kheo, đây là khổ tập khởi”. Lại nữa, “Vô minh duyên hành;…; hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; …”; trong đoạn này, chi phần lão tử được thay bằng chi phần mới là khổ.

 

Tiếc rằng kinh không ghi lời Phật dạy tại sao vô minh sinh hành, tại sao hành sinh thức, v.v. Ta chỉ hiểu tại sao sanh sinh lão tử; vì có sanh ắt có chết! Ta cũng có thể giải thích tại sao như đã nói trên; và cũng có thể hiểu rằng chi phần đứng trước là thể, là tính, là năng lực tạo ra chi phần kế tiếp như là tướng, là dụng, là kết quả của chi phần đứng trước.

 

Đức Phật không hề chia 12 chi phần ra từng nhóm thuộc hiện tại, quá khứ, vị lai. Thế mà về sau, các luận gia lại chia ra như thế để giải thích về nghiệp, nhân quả, luân hồi (Ví dụ, quan điểm Tam thế lưỡng trùng nhân quả của Nhất thiết hữu bộ). Rõ ràng, theo văn mạch của kinh, với lý duyên khởi, Đức Phật chỉ giải thích nguyên nhân và sự vận hành nội tại của khổ, của sinh tử ở con người đang sống, ngay đây và bây giờ. Có nhiều người còn lập luận rằng đến chi phần lão tử thì chuỗi nhân duyên lại nối tiếp để trở về chi phần đầu tiên là vô minh theo kiểu lập luận vòng tròn (mà do cảm tính nên bảo rằng đấy là cách giải thích về luân hồi). Như vậy là đi xa văn mạch của kinh.

 

Đức Phật đã áp dụng nguyên lý căn bản của Duyên khởi do Ngài phát hiện, “Do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này diệt, cái kia diệt”. (Kinh Phật tự thuyết). Ngài khởi quán từ nguyên nhân của già chết (là động cơ khiến Ngài xuất gia), từ đó Ngài quán tiếp, dần đến vô minh. Theo chiều xuôi, Ngài lại quán từ vô minh đến già chết. Vậy là xong. Ngài không dạy thêm gì khác trong văn mạch này./.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2012(Xem: 9590)
Nhân minh học là gì? Môn học này của Phật giáo ở phương Tây thường gọi là logic học hay là Luận lý học. Viện sĩ Nga Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn "Nyaya bindu" của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti (Pháp Xứng) cũng dịch đầu đề cuốn sách là "A short treatise of logic" tức "Một bộ luận ngắn về logic".
19/11/2012(Xem: 5040)
Thực là một điều lý thú đối với Phật tử chúng ta, khi theo dõi cuộc bàn luận về một đề tài Phật giáo như: “Biệt nghiệp và cộng nghiệp” giữa hai nhà khoa học tự nhiên, hai nhà bác học thế giới: Một là Matthieu Ricard, người Pháp, tiến sĩ Sinh học, trở thành một tu sĩ Phật giáo tại một thiền viện Tây Tạng ở Katmandu (Nepal). Người thứ hai là Trịnh Xuân Thuận, một người Mỹ gốc Việt, một nhà bác học về Vật lý thiên văn, đang công tác tại Viện Công nghệ học California, và là giáo sư ở trường Đại học Virginia. Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
18/11/2012(Xem: 10020)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoát và giác ngộ tối hậu...
18/11/2012(Xem: 5215)
Ông Anthony Burns là nhà nghiên cứu Irish trong truyền thống Zen hơn 16 năm. Ông ta hoan hỷ trả lời những thắc mắc của các bạn. Bạn có thể tiếp xúc với ông ta qua email: [email protected] Sự kỳ thị phân biệt đối với nữ giới trong Phật giáo có gốc rễ của nó trong xã hội Vệ Đà và là bệnh chứng thuộc về cấu trúc gia trưởng của xã hội loài người từ thời gian đó.
18/11/2012(Xem: 4807)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
18/11/2012(Xem: 12086)
Quyển THIỀN TÔNG QUYẾT NGHI TẬP này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh, sau đó được xếp vào Đại Chính Tạng tập 48, trang 1009.
16/11/2012(Xem: 9049)
Mỗi Phật tử theo học Phật Pháp cần phải được khuyến khích vai trò trách nhiệm của họ khi phải đương đầu với vị Pháp sư của mình về các hành vi không đạo đức của vị thầy.
15/11/2012(Xem: 3774)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
14/11/2012(Xem: 4516)
Khi đức Phật ngự trong động Nhẫn-Đà Bà-La, tại núi Tà-đà, thuộc nước Ma-kiệt-Đà, bấy giờ Vua Trời Thích (Đế-Thiên Đế-Thích, cũng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế) khởi tâm muốn đến gặp Phật. Ngay khi ấy, các vị Trời cõi Đạo-Lợi biết được Đế-Thích khởi tâm như thế, liền đến chỗ Đế-Thích thưa :
14/11/2012(Xem: 3582)
Ngày xưa, có hai vợ chồng nọ làm nghề nông, trong nhà có nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà, còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày, trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chiều tối mới về, còn chó ta chỉ việc nằm phè ở nhà dòm chừng trong ngoài trước sau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]