Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tương Đối Và Tuyệt Đối

27/03/201410:34(Xem: 8270)
Tương Đối Và Tuyệt Đối

Lama_Yeshe_1


Tương Đối Và Tuyệt Đối

Lama Yeshe

Minh Chánh chuyển ngữ

Ở đây, tôi đang đề cập đến bản chất tương đối của bạn mà trong đạo Phật thường nhắc tới. Bạn nghỉ rằng : “Bằng cách nào bạn mô tả được bản chất của tôi như vậy? Bản chất của tôi có nhiều khía cạnh khác biệt”. Đó có thể là ý tưởng của phương Tây, còn quan điểm của Phật giáo thì đơn giản hơn nhiều. Theo Phật giáo, bản chất của bạn chỉ có hai khía cạnh là tương đối và tuyệt đối.

Do đó, khi mô tả bạn ra sao, thì tôi đang đề cập đến bản chất tương đối của bạn. Đôi lúc, chúng ta nói về những ý tưởng cao hơn, một điều gì đó tuyệt đối. Có lẽ bạn đã từng đọc những quyển sách nói về bản chất tuyệt đối. Hãy quên tính tuyệt đối—trước hết, bạn phải biết cách thể hiện chức năng thân, miệng và ý tương đối của mình trong cuộc sống hằng ngày. Điều này rất quan trọng. Bạn không thể bước thẳng vào thế giới tự do nội tại ngay tức khắc. Khi kho học phương Tây nói về sự tiến hóa, nó mô tả một tiến trình phát triển dẫn dần. Thậm chí tôi biết điều đó và tôi hơi ngớ ngẩn, không được giáo dục; tôi chưa từng đến trường học. Tuy vậy, khi nghe các nhà khoa học phương Tây nói về sự điều phục tâm, đối với tôi nghe có vẽ như người nguyên thủy. Tất nhiên, tôi có thể chắc chắn rằng họ bảo tôi là một người nguyên thủy!

Tuy nhiên, ngay khi bạn bảo mình đã từng nói rằng: “Tâm tôi là thế này; tâm tôi là thế kia”, nhưng thực chất, bạn không có khái niệm tâm mình là gì. Bản chất của tâm không phải là một số tập quán thuộc phương Đông. Bạn đã có tâm ngay từ khi mới chào đời—bạn không thể nói rằng nó là một tập quán thuộc phương Đông. Cũng vậy, đạo Phật không nói về các tập quán; các tập quán không quan trọng. Vì thế, mô tả tâm không phải là một tập quán thuộc phương Đông. Dù sao đi nữa, ở đây, tôi đang đề cập đến bản chất tương đối của bạn. Đó là tâm tương đối thể hiện chức năng trong cuộc sống hằng ngày của bạn. Ví dụ, bất cứ lúc nào những điều trở nên sai lầm trong tương tác của mình với mọi người—gia đình, bạn bè hoặc xã hội nói chung—bạn luôn trách cứ một ai đó. Hãy quán chiếu tâm mình—bạn thực hiện. Đây là một quan niệm sai lầm. Trên thực tế, tất cả những vấn đề của bạn, cả vật chất lẫn tinh thần, xuất phát từ vô minh—thiếu trí tuệ nhận thức sâu xa—và chấp thủ. Hai yếu tố tâm thức này là nguồn gốc lớn nhất của bất cứ vấn đề nào thuộc về xã hội hoặc cá nhân. Hãy quán sát nhưng thời điểm này phải quán sát dựa trên tâm của chính bạn.

Hãy nghỉ về khi bạn nói dối người khác, hoặc khi bạn sát sanh, tước đoạt mạng sống của sinh vật khác. Hãy quán sát: Tại sao bạn làm những điều như vậy? Nguồn gốc của vô minh; động cơ thúc đẩy là cố chấp, bảo thủ vì sự ham thích của chính bạn. Năng lực của vô minh, sự thiếu hụt trí tuệ nhận thức trầm trọng, là giống như vị vua hoặc hoàng hậu và sự chấp thủ là cận thần. Đó là tâm, là tâm của bạn. Tôi không nói về một điều gì đó khác nữa. Tâm của bạn bao gồm sự liên đới của hai điều này: vô minh và chấp thủ.

Hai yếu tố này là nguyên nhân chủ yếu của các vấn đề thuộc tâm sinh lý. Nếu không nhận thức được điều này, bạn sẽ chẳng bao giờ có thể giải quyết các vấn đề của mình bởi vì bạn sẽ tiếp tục nghỉ rằng nguyên nhân của chúng nằm ở ngoại tại: “tôi không hạnh phúc, tôi nhất định sẽ thấy anh ta lần nữa; tôi không hạnh phúc, tôi cần một căn nhà lớn hơn; tôi không hạnh phúc, tôi cần một chiếc xe hơi tốt hơn”. Bạn không bao giờ có thể chấm dứt vấn đề theo cách đó. Đặc biệt ở phương Tây, chúng ta luôn luôn nghĩ rằng tiền bạc là giải pháp đối với tất cả các vấn đề. Đó không phải là sự thật, là quan niệm hoàn toàn sai lầm.

Đừng nghỉ rằng :“Lama buông bỏ tôi…đó không phải cách tôi nghỉ”. Tôi không nói về ý tưởng tri thức; tôi đang nói về một điều gì đó sâu sắc hơn bắt nguồn từ tâm của bạn. Các vấn đề của nhân loại không xuất phát từ ý tưởng tri thức. Thực chất, nếu có thể thấy những gì xảy ra trong tâm mình, bạn sẽ không tin tưởng nó. Mặc dù không có nhận thức về phương hướng vật chất của tư duy, nhưng trong sâu thẳm tiềm thức của mình có những tác đọng dẫn bạn vào vòng xoáy từ một cuộc hành trình với chỗ này đến chỗ khác, liên tục thay đổi. Đây là những gì chúng ta nói về luân hồi. Chúng ta đi quanh co và lui tới nhưng chưa bao giờ vượt thoát khỏi vòng xoáy này. Toàn bộ tiến trình cuộc sống của chúng ta như một trò đùa. Chúng ta thường mua đồ chơi cho con nít…chúng ta cũng giống như vậy; đó chỉ là một trò chơi khác nhau mà thôi.

Chúng ta thường khoe khoang: “thế hệ hiện đại được giáo dục quá tốt, hiểu biết quá nhiều. Chúng ta cũng đã thành thạo trong lý thuyết xã hội, kinh tế, phát triển v.v”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa thế hệ hiện thời là thông minh hơn và thế hệ trước là ngu đần. Tại sao? Bởi vì thế giới ngoại tại đang tự động thay đổi và tất cả những gì bạn đang thực hiện là quan sát sự biến động tự nhiên.Vì vậy, đừng nghỉ rằng bạn khôn khéo hơn các thế hệ trước.

Tuy nhiên, một số trong các bạn nhận thấy rằng thật thú vị khi tìm kiếm một điều gì đó vượt thoát khỏi tiện nghi vật chất đơn thuần, nhưng nếu không tìm thấy với thái độ đúng đắn, thì bạn sẽ còn luẩn quẩn trong luân hồi. Thậm chí nổ lực để thực tập thiền, yoga hoặc đi theo một số phương pháp tâm linh khác, thì bạn sẽ vẫn còn luẩn quẩn. Do vậy, hãy chắc chắn rằng bạn phải có một thái độ tâm thức đúng đắn và quan điểm chính xác và bạn đang đi trên con đường chơn chánh qua nhận thức cách thái độ tâm thức sai lầm dẫn bạn đi trên con đường sai lầm sẽ đưa đến kết quả sai lầm.

Người phương Tây thường nói “đừng tiêu cực, hãy trở nên tích cực”. Họ muốn nói về cái thiện nhưng không đề cập đến cái ác. Nhưng cái ác vẫn tồn tại; tại sao không đề cập tới nó? Bạn không cần phải tức giận để nói về nó, nhưng quan trọng là phải giải thích và biết rõ cách tâm bất thiện hoạt động. Theo quan điểm Phật giáo, điều đó rất quan trọng. Đây là lý do tại sao mà tôi luôn luôn cho rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo mang tính chất ngoại giao, mà thường xuyên nói mọi thứ đều tốt đẹp. Chúng ta muốn thấu đạt bản chất của các pháp mà không hề do dự. Bởi thế, đừng ngạc nhiên; bạn nên chờ đợi tôi để nói răng các pháp không đặc biệt thú vị. Đừng lo lắng.

Tất nhiên, chúng ta có những phẩm chất ưu tú, những phẩm chất cao đẹp. Tương tự, tất cả chúng sanh khác cũng vậy, ngay cả loài cá và gà vịt. Tất cả chúng ta đều sở hữu những phẩm chất ưu việt của tâm. Tuy nhiên, cùng lúc, chúng ta cũng sở hữu những bản chất bất thiện có thể nhận chìm mình xuống vực sâu đau khổ. Vì thế, chúng ta cần chứng tỏ và biết rõ cả điều tốt lẫn điều xấu trong bản thân mình. Sau đó, chúng ta có thể buông bỏ lo sợ. Nếu không, mỗi bước đi của chúng ta có thể khiến bản thân mình trở nên lo sợ.

Nếu không có trí tuệ nhận thức nội tại hoặc trí tuệ nhận thức về những gì thiết lập nên hạnh phúc thực sự và đời sống an vui chân thật mà chỉ ngồi chờ đợi thé giới có thể trở nên tốt hơn theo cách này cách khác, thì bạn đang nằm mơ. Làm sao thế giới có thể trở nên tốt hơn? Ví dụ, tình trạng lạm phát làm sao để cải thiện? Tình trạng lạm phát hình thành từ chấp thủ. Nó thể hện—nhưng tôi chắc rằng những nhà kinh tế chính trị không biết điều đó! Năm tháng trôi qua, họ cứ tiếp tục “tại cái này vì cái kia”nhưng họ họ không biết lạm phát thực sự là do chấp thủ gây nên. Tại sao vậy? Bạn hãy quan sát. Kinh tế đột nhiên trở nên tồi tệ trầm trọng là có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân chủ yếu là vì ích kỷ và cố chấp. Một số người có quá nhiều thứ nhưng lại lo sợ thiếu hụt. Do vậy, họ luôn tích trử khiến nền kinh tế sau đó rơi vào tình trạng lạm phát. Không phải có sự thiếu hụt về hàng hóa vật chất; ngược lại, thực phẩm và hàng hóa rất dồi dào. Chính tâm ích kỷ gây nên sự lạm phát.

Dù sao, chính bạn hãy tự quan sát lấy; đó không phải là sự thực chỉ bởi vì tôi nói như vậy. Hơn nữa, nếu nghiên cứu kỉ, bạn sẽ thấy rõ cách mà tâm ích kỷ và cố chấp (chấp thủ) gây ra các vấn đề đối với cá nhân và xã hội, cũng như phá hoại đời sống an vui và hạnh phúc nội tại của con người. Hãy nhìn vào những cuộc chiến tranh tôn giáo. Có một điều cứ tiếp diễn cho tới bây giờ; không chỉ hiện tại—suốt trong lịch sử. Những cuộc chiến tranh tôn giáo xuất phát từ bảo thủ cố chấp. Tôi đang nói về cách mà sự cố chấp hoạt động. Hai đứa bé đánh nhau để tranh dành một cục kẹo đều xuất phát từ cố chấp; hai quốc gia hùng mạnh đánh nhau cũng xuất phát từ sự cố chấp; tín đồ tôn giáo đánh nhau cũng xuất phát từ cố chấp. Thực chất, các tín đồ tôn giáo đánh nhau đều nghỉ rằng ton giáo đó là tuyệt vời nhưng việc đánh nhau không phải là hành động của tôn giáo, đúng không? Đối với họ, tôn giáo như là một lý tưởng, đó là tất cả. Những người đánh nhau trong các cuộc chiến tranh tôn giáo không phải là những người mộ đạo. Tôn giáo là từ bi và tình thương rộng lớn. Làm sao việc sát sanh có thể trở thành hành động của tôn giáo? Điều đó không thể được. Nó xuất phát từ cố chấp bảo thủ. Vì vậy, bạn có thể hiểu cố chấp là vấn đề lớn nhất trên thế giới này. “Tôn giáo của tôi là tốt, do đó tôi nhất định giết bạn”. Điều ấy thật lố bịch. Những người nghỉ như vậy thường là đang hủy hoại chính mình.

Nếu làm điều đó, tôi sẽ trở thành độc hại cho tôn giáo. Những gì tôi đã làm không liên quan gì đến tôn giáo. Tuy nhiên, mặc dù các hành động của mình trái ngược với tôn giáo, nhưng vốn nghỉ rằng “tôn giáo của tôi là tốt đẹp”. Thay vì trở nên phương dược để giải quyết các vấn đề thuộc tâm lý, nhưng do thái độ tâm thức bị xuyên tạc của mình, nên tôn giáo của tôi trở thành thuốc độc. Mặc dù nghỉ rằng “đây là tôn giáo của tôi”, nhưng không có phút giây nào trong các hành động của tôi sẽ trở thành tôn giáo.

Ví dụ, tôi có ý tưởng rằng tranh Thangka[1]là tôn giáo của tôi. Do vậy, nếu bất cứ ai cố ý đốt cháy tranh Thangka của tôi thì tôi cảm thấy thất vọng bởi vì tôi nghỉ anh ta phá hoại tôn giáo của tôi. Đó là một quan niệm sai lầm. Một bức tranh không phải là tôn giáo. Những người nghỉ các thứ vật chất là tôn giáo tức là hiểu sai ý nghĩa của tôn giáo. Tôn giáo không nằm ở ngoại tại; giáo pháp không nằm ở bên ngoài. Nó chỉ ở trong tâm.

Kinh Thánh cũng nói như vậy. Tân Ước[2]chứa đựng những lời dạy tuyệt vời do Chúa Jesus trình bày, nhưng nhiều người không hiểu trong đó giải thích rõ những gì. Ví dụ, Chúa nói những người tôn sùng thần tượng là không theo ông ta. Điều này rất thực, vì đó là lời dạy lập dị. Chúng ta phải hiểu cách để hợp nhất tôn giáo với cuộc sống hằng ngày của mình, phải đưa tôn giáo vào trong hành động và giải quyết các vấn đề của chúng ta, chứ đừng nghỉ mọi thứ vật chất như nhà thờ và tài sản là tôn giáo. Nếu suy nghỉ vậy thì thật lố bịch.

Nói cách khác, những người tôn sùng thần tượng nghỉ rằng những nguyên tử vật chất là tôn giáo của mình và không nhận thức được bản chất hoặc tinh thần của chính mình không có ý tưởng về tôn giáo thực sự. Chúa Jesus đã trình bày những lời dạy hoàn hảo để giải thích điều này, nhưng chúng ta không nhận thức rõ.



[1]Thangka (còn được viết là Tangka hay Thanka) là loại tranh vẽ (hay thêu) treo ở các tự viện hay nơi thờ Phật tại gia đình. Thangka chỉ những họa phẩm cuốn lại được. Điều này chỉ ra rằng Thangka rất tiện lợi cho các nhà sư mang đi đến những nơi hành lễ, mang từ tự viện này đến tự viện khác. Tiếng Tây Tạng từ “thang” có nghĩa là phẳng, do đó tranh Thangka là họa phẩm thực hiện trên mặt phẳng, có thể cuộn lại khi không cần trưng bày, nó được gọi là “tranh cuộn” là vì vậy.

Cũng có hướng truy nguyên khác: Thangka bắt nguồn từ từ “Thang yig”, tiếng Tây Tạng có nghĩa lả “ghi lại”. Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng cùng chư Bồ tát, thánh thần. Một đề tài đặc biệt phổ biến là Pháp luân. Loại Thangka màu thể hiện cả thần và nữ thần Hindu cùng các đề tài Phật giáo: Đức Phật tọa thiền, cuộc đời Đức Phật, Pháp luân, Mạn đà la, Dược Sư Phật...

[2]Tân Ước: Tân Ước, còn gọi là Tân Ước Hi vănhoặc Kinh Thánh Hi văn, là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hi Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 sau công nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau Cựu Ước). Từ này được dịch từ tiếng LatinhNovum Testamentum, nguyên ngữ Hi văn Kainē Diathēkē(Καινή Διαθήκη), nghĩa là "Giao ước mới". Thuật ngữ "Tân Ước" lúc đầu được Kitô hữudùng để miêu tả mối tương giao giữa họ và Thiên Chúa, về sau được dùng để chỉ một tuyển tập gồm 27 sách.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2010(Xem: 2917)
Một trong các phương pháp thực tập sự kham nhẫn là học hạnh chịu đựng của đất. Đất có thể bao dung hết muôn loài vật trên thế gian này. Đất nuôi sống thiên nhiên, cỏ cây, hoa trái để nuôi dưỡng chúng sinh. Từ đất con người khai thác các loại tài nguyên khoáng sản để có điều kiện gia tăng sản xuất, nâng cao đời sống để nhân loại và muôn loài vật tồn tại.
26/12/2010(Xem: 7976)
Thượng tọa Henepola Gunaratana thọ cụ túc giới vào năm 12 tuổi, trong một ngôi chùa nhỏ ở làng Malandeniya, quận Kurunegala thuộc quốc gia Miến Điện. Thầy bổn sư của ngài là thượng tọa Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Vào tuổi 20, ngài được thụ phong đại đức ở Kandy, năm 1947. Ngài hoàn tất chương trình giáo dục tại đại học Vidyalankara và đại học Phật học ở Colombo. Ngài sang Ấn độ trong 5 năm để làm việc thiện nguyện cho hội từ thiện Mahabodhi, giúp đỡ người Harijana ở những thành phố Sanchi, Delhi, và Bombay. Mười năm sau đó, ngài sang Mã lai, làm cố vấn tôn giáo cho hội Sasana Abhivurdhiwardhana, hội từ thiện Phật giáo, và Liên đoàn thanh niên Phật tử Mã Lai. Ngài cũng là giáo sư dạy các trường Kishon Dial, Temple Road Girls, và Trụ sở Nguyên tắc Phật học hội ở thủ đô Kuala Lumpur.
26/12/2010(Xem: 12704)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
12/12/2010(Xem: 6133)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
28/11/2010(Xem: 6055)
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.
13/11/2010(Xem: 3478)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
11/11/2010(Xem: 4322)
Đây là sáu phương pháp thực tiễn tu tập dành cho các hàng đệtử của đức Đạo sự từ tại gia cũng như xuất gia và,nhất là dành cho các hàng Bồ-tát tu tập muôn hạnh trong việctự độ và độ tha; có nơi còn gọi là Lục độ vạn hạnh.Lục ba-la-mật gọi đủ là Lục Ba-la-mật-đa.
09/11/2010(Xem: 5493)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
04/11/2010(Xem: 7612)
Học Phật không phải học lý thuyết của một bộ môn tư tưởng, cũng không phải cố gắng hoàn tất những pho giáo lý được biện giải bởi những nhà tri thức đa văn và có tài diễn đạt, cũng không phải như những Pháp sư thông làu các tạng kinh, luận và giới luật. Học Phật ta có thể tạm thí dụ như học ngành bác sĩ chuyên khoa, chữa trị bệnh tật có hiệu lực và cứu sống được nhiều người.
27/10/2010(Xem: 11427)
Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ, xem như mắc tội vậy. Phật không bao giờ cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc, mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567