Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trạch Pháp

01/02/201419:20(Xem: 10083)
Trạch Pháp

Sakya_Muni_2a

Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường. Do vậy, trong khóa tu Gieo Duyên cuối năm 2013 tại Tự Viện Pháp Bảo, Sydney, chúng tôi trong Ban Giáo Thọ phụ trách giảng giải chủ đề này trong ba buổi học để học viên nắm vững được đầy đủ hơn, ngõ hầu vui thích học pháp và như vậy mới dễ dàng cho việc ứng dụng giáo pháp vào đời sống thường nhật. Trạch pháp - chọn pháp – nói đủ là trạch pháp giác phần hay pháp giác ý. Dùng trí tuệ lựa chọn, phân biệt đúng sai, thật giả của các pháp để chọn chân bỏ giả thẳng hướng tới Bồ Đề, là một trong bảy pháp giác chi như lời Phật dạy.

Còn ở đời người ta đa phần dựa vào quyền lực của kẻ mạnh để chọn chức tước, địa vị, dựa thân thế trong việc thăng quan tiến chức, dùng mưu kế sắp đặt, toan tính việc gì có lợi cho bản thân, nghĩ ra nhiều mánh mung vặt vãnh để mong thủ lợi cho mình. Đem tiền bạc làm mồi cho thiên hạ muốn lợi dụng, theo hùa về số đông đe dọa hoặc hiếp đáp kẻ yếu kém, thế cô… đều là những sự chọn lựa bất xứng, trước sau gì rồi cũng bị lộ diện trước ánh sáng của công lý. Cũng như mọi người, cuộc sống chúng ta cần phải có một nhu cầu tối thiểu như ăn uống, là cả một vấn đề không đơn giản chút nào cả. Thế giới đã trải qua hai cuộc đại chiến thứ nhất và thứ hai chung qui cũng chỉ vì con người tranh giành nhau về nguồn lợi kinh tế; đồ mặc cũng không phải không phức tạp do nhu cầu của ta muốn đẹp không chưa đủ mà còn muốn sang trọng nữa mới hài lòng. Nội việc làm thoả mãn cái đẹp, cái sang này mà chúng ta đã đoạt mất sự sống của loài vật khác không thương tiếc, có nhiều khi trực tiếp phá hoại môi trường thiên nhiên trong việc cung cấp nhu liệu sản phẩm qua đơn đặt hàng hàng loạt. Về chỗ ở cũng là điều đáng quan tâm hàng đầu, một khi nhu cầu càng cao thì chi tiêu càng lớn; và cứ như thế ta lo chạy đua hụt hơi mà vẫn chưa chịu dừng lại. Cho tới một lúc nào đó mệt mỏi rã rời bất chợt nhận ra việc đã quá trớn ta không còn hãm đà được nữa, và rồi mọi ảnh hưởng liên đới vô cùng tệ hại không tìm ra lối thoát. Còn về phương tiện của cuộc sống cũng phải biết cân nhắc cẩn thận, tính toán đủ cách mới phần nào tránh bớt phương hại cho mọi người và mọi loài. Nói chung sống trên đời ta phải chọn đúng ngành nghề để theo đuổi cho tay nghề được điêu luyện tinh vi. Ngay từ khi còn học trung học, ta cũng đã chọn ngành học thích hợp ở bậc đại học mới kịp chuẩn bị hành trang vào tương lai, hầu khỏi ngỡ ngàng và lúng túng khó giải quyết. Cũng như về sở thích không ai giống ai, đó đều do mỗi người chọn lựa theo đuổi tới cùng mới thoả mãn được hoài mong. Và phần năng khiếu tức là tài chuyên môn về một khía cạnh đặc biệt nào đó cũng làm cho ta xứng đáng góp mặt với đời, nếu biết triển khai đúng mức.

Nói về pháp để chọn có rất nhiều không thể tính hết được, miễn sao chọn pháp hợp với căn cơ trình độ, hoàn cảnh vai trò trong xã hội v.v… cũng như ta chọn thức ăn rồi mua về chế biến sao cho thích hợp khẩu vị để mình thưởng thức hay đãi khách khứa, bạn bè. Chọn đề cập ở đây khác với lựa, vì chưa thấy rõ hoặc hình dung cụ thể, trong khi lựa chọn món đồ vừa ý, mắt ta đã nhìn thấy tận tường nên chăm chú cố nhặt lấy món mình thích. Chẳng hạn chọn ngành học, chọn nghề nghiệp là những gì chưa rõ ràng cụ thể, nhưng khi đã cương quyết ta phải dốc lòng theo đuổi cho tới lúc đạt đến thành công. Muốn được vậy, ta cần phải gia tâm bền chí và nỗ lực tinh tấn không ngừng để cho thấy việc mình làm đúng. Xin đơn cử một việc nhỏ như chuyến du lịch, ta biết tấm vé thuộc hạng nào và số chỗ ngồi đã qui định. Nên một cách tự nhiên hành khách đặt mình vào đúng vị trí để không tạo bất ổn, làm mất trật tự và phiền lòng người khác. Trong trường hợp này, ta cũng biết lường trước khả năng có thể mua vé hạng nhất, business hay hạng economy… đó cũng là cách chọn thích hợp hoàn cảnh và điều kiện.

Trong đạo cần phải chọn đúng pháp môn tu như Thiền, Tịnh Độ, Mật Tông, Kim cang v.v… hầu chuyên tâm sâu vào mỗi pháp mới đạt đến kết quả mong muốn. Nói rộng hơn như chọn Thầy, chọn bạn, chọn vị trí thích hợp hạ lạp, chọn người trụ trì, thế hệ kế thừa ngôi chùa, giảng sư, bài giảng, học viện, địa danh v.v… như chuyên về pháp môn Thiền phải nhắm tới thiền chỉ hay thiền quán. Thiền chỉ là pháp quán theo dõi hơi thở ra vào để dừng dứt tâm dao động, bất an phần nhiều của người mới nhập môn; thiền quán tức là tĩnh tâm tư duy, quán chiếu chân lý. Lục Tổ Huệ Năng giải thích thiền đinh như sau: “Ngoài lìa tướng là thiền, trong không loạn là định” (Từ điển Thiền Tông Hán Việt do Hân Mẫn và Thông Thiền dịch). Cốt tủy của Thiền như sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Bồ Đề Đạt Ma có lưu xuất bài kệ:

Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

Dịch

Không lập văn tự (chữ nghĩa)

Truyền ngoài giáo pháp

Chỉ thẳng tâm người

Thấy tánh thành Phật.

Nói chung hành giả biết thích nghi với hoàn cảnh mà ứng xử để được lợi mình và người. Chẳng hạn, đến tham dự một cuộc đại lễ có mời số đông chư Tăng, ta nên tự biết mình bao nhiêu tuổi hạ để nhường chỗ cho vị có tuổi hạ cao hơn ngồi hay đi trước mình. Việc này không có tính cách bắt buộc mà do tự giác theo qui cách thiền môn, vị Tăng phải có đức tự trọng để được người khác nể trọng. Đây là một hình ảnh đẹp vô cùng mà chỉ có hàng xuất gia chân chánh của Đức Phật mới giữ được mà thôi. Nói xuất gia chân chánh là người tu có bậc Thầy đức độ dẫn dắt, cùng chúng tu học giữ đúng pháp hòa kính, như nước với sữa hòa hợp với nhau, không tranh cải lớn tiếng, không tụ tập bàn luận việc vô ích. Ở trong chúng cùng nhau chia xẻ sự học hỏi cũng như hiểu biết và cao trọng hơn cả là cùng giữ gìn giới luật, dù không cùng cha mẹ, nhưng chung Thầy và cùng tôn thờ một lý tưởng nên dễ thông cảm nhau chẳng khác gì anh em ruột thịt một nhà. Ngày xưa, hồi Phật còn tại thế, nếp sống Tăng đoàn rất đẹp và hòa hợp nhờ ân đức của đức Từ Phụ qua sự giáo huấn ân cần của Ngài. Sự giáo dục của Đức Phật cảm hóa đệ tử qua ba khía cạnh thân, khẩu, ý. Thân tướng Phật trang nghiêm, giới đức thanh tịnh, đi khất thực mỗi ngày, đi chân trần ngày ăn một bửa… là những hình ảnh rất thực, gần gũi, thân thương dễ cảm hóa người khác nên chúng xuất gia được nhiều lợi lạc. Lời nói nhu hòa, nói lời từ ái, lời nói chân thật, lời nói lợi lạc của Phật cảm hóa được nhiều người trong đó có hàng Vua quan như Vua Tần Bà Sa La, A Xà Thế, hoàng hậu Vi Đề Hy, ông trưởng giả Cấp Cô Độc… quy y theo Phật để trở thành đệ tử của Tam Bảo hết lòng hộ trì chánh pháp.

Còn về ý giáo chỉ những đệ tử có cơ duyên được Phật ấn chứng, nối truyền chánh pháp Như Lai qua câu chuyện ấn tâm cho Ngài Ma ha Ca Diếp, như chúng ta đã biết nơi pháp hội Linh Sơn với số chúng đông vầy, Phật giơ cành hoa sen ra giữa mọi người mà không ai hiểu ý gì cả. Trong khi đó, Ngài Ca Diếp mĩm cười do lãnh hội được ý của Phật, nên được đức Phật truyền tâm ấn qua bài kệ:

Ta có chánh pháp nhãn tạng

Niết Bàn diệu tâm: thật tướng vô tướng

Nay phó chúc cho ngươi

Ngươi khéo gia tâm gìn giữ lưu truyền.

Qua lịch sử truyền bá đạo Phật, sự chọn pháp đúng người, giao đúng việc chỉ đức Phật có đầy đủ cái nhìn trạch pháp như ta đã biết qua các vị Tổ như Ma ha Ca Diếp sơ Tổ Thiền Tông, là bậc tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất, Tổ đệ nhị Ngài A Nan, đa văn đệ nhất, Tổ Thương Na Hòa Tu… mỗi vị đều có một hạnh đặc biệt. Ngay cả trong số 10 đệ tử lớn của Phật như các Ngài Ưu Ba Ly, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Na Luật, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, A Nan và La Hầu La là những vị trực tiếp lãnh trách vụ tuyên dương giáo pháp của Phật theo sở trường và chỗ tu chứng, nên công việc truyền giáo vô cùng thuận duyên, lợi lạc đối với nhân sinh xã hội từ Ấn Độ sang các nước Đông Nam Á. Vào thế kỷ thứ 20, đạo Phật đã truyền bá sang các nước Tây Phương, nên ngày nay toàn thể nhân loại đều biết qua Phật Giáo hay nghiên cứu giáo lý đạo Phật. Đó cũng nhờ chư Tổ, những nhà học giả Phật Giáo đã đặt địa bàn đúng hướng và tầm nhìn nhất quán với con mắt trạch pháp tinh tế như vậy.

Trong thời đại văn minh khoa học vật chất của thế kỷ 21 này, có thể nói do con người sai lầm tạo nên đã và sẽ đưa nhân loại vào vòng thống khổ như sự ô nhiễm môi sinh, bầu khí quyển nên xảy ra nhiều biến cố thiên tai như bão lụt, sóng thần, động đất, núi lửa… cướp đi hàng triệu mạng người tại Phi Luật Tân, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ trong những tháng cuối năm 2013 vừa qua, là những hình ảnh kinh hoàng đáng nhớ. Những cuộc chiến ủy nhiệm do Hoa Kỳ chủ trương tại Iran, Afghanistan và quân đội các nước đồng minh tham chiến, đang bị sa lầy không lối thoát, đều do sách lược sai lầm, chủ quan và không tự chế, nên đã hy sinh không biết bao nhiêu mạng sống, tài nguyên và tiền của cho tham vọng của các nước tư bản. Theo đà tiến bộ nhanh đến độ chóng mặt hôm nay, chúng ta đang chờ xem một ngày kia nhân loại càng lầm than, khổ sở hơn lên gấp bội. Những thiên tai, hoạn họa, chiến tranh, dịch bệnh, ung thư… ngày càng lan tràn với sức tàn phá mãnh liệt những con người trên mặt đất này. Hậu quả của những tác hại kinh khủng đó không từ trên trời rơi xuống, cũng không do ai khác xúi sử mà một phần lớn mỗi người chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Vấn đề là con người hôm nay mãi chạy đua theo mode thời trang, làm giàu trên sức cần lao của kẻ khác nên đã trực tiếp làm hỏng môi trường sinh thái. Vậy đã đến lúc chúng ta phải gióng lên hồi chuông báo động để ngăn chặn, sửa sai sự lạm dụng phương tiện sống dồi dào, rồi đi quá đà không kềm hãm lại được mà làm cạn kiệt tài nguyên, bào mòn sự sống của mọi loài không biết thương tiếc.

Thế giới đang chủ trương hòa bình trong khi tự thân mỗi người lại nuôi mầm thù hận, âm mưu chiếm đoạt của kẻ khác, nên mầm chiến tranh cứ mãi âm ỉ khó mong chấm dứt tận gốc.

Kinh Lục Độ Tập quyển 1, bài số 10 nêu dẫn câu chuyện xưa: Bồ Tát làm vị quốc vương tên là Trường Thọ, thái tử tên là Trường Sanh. Nhà vua nhân từ, luôn thương xót chúng sanh và luôn tinh tấn hành thiện. Dao gậy không dùng đến, nhân dân mến mộ, thời tiết điều hòa, lúa thóc được mùa.

Tiểu vương nước láng giềng rất bạo ngược, tham tàn nên dân nghèo, nước yếu kém. Nhà vua nước ấy bảo quần thần:

Ta nghe vua Trường Thọ giàu có, lại có lòng nhân không giết hại, không có quân đội phòng thủ, lại không xa, ta muốn chiếm lấy nước đó, được chăng?

- Quần thần tâu: Được.

Vua liền khởi binh kéo đến biên giới nước lớn. Quan giữ cửa thành vội tâu rõ tình trạng xin gấp rút tìm cách phòng thủ. Vua Trường Thọ họp quần thần, bảo rằng:

- Vua kia đến đây chỉ vì tham nước ta dân đông, nhiều của báu. Nếu giao tranh với họ ắt hẳn sát hại nhiều người. Vì lợi mình mà tàn hại dân, tham lam mà bất nhân, việc ấy ta không làm.

Quần thần đều tâu: - Chúng thần từ lâu đã học tập quân mưu, binh pháp, xin được đem binh đánh diệt bọn chúng, không nhọc thánh quân lo nghĩ.

Vua Trường Thọ nói:

- Ta thắng thì chúng chết, còn ta thua thời ta tiêu tan. Dù binh lính của họ hay

nhân dân của ta đều do trời sinh dưỡng. Trọng thân tiếc mạng, ai mà chẳng vậy. Nhưng để toàn thân mình, mà hại muôn dân thì người hiền không làm.

Quần thần đồng thanh đứng dậy cùng nói:

- Đây là bậc vua trời nhân đức, không thể để mất nước, phải cùng chung nhau kiểm điểm binh mã đem ra chống giặc.

Vua Trường Thọ biết rõ việc ấy nên gọi Thái Tử bảo:

- Vua kia tham nước ta muốn tới chiếm lấy, quần thần vì thân ta chỉ một người mà muốn hại mạng muôn dân. Nên ta giao nước để bảo toàn mạng sống cho dân trời, việc ấy nên chăng?

Thái Tử tâu: xin vâng theo phụ vương!

Thế rồi cha con vượt thành ra đi, thay tên đổi họ, ẩn cư nơi non sâu rừng vắng.

Vua tham kia tự do vào thành, rồi treo giải thưởng là 1000 lạng vàng cho ai bắt được vua cũ. Còn về vua Trường Thọ ra đi, ngồi thiền định dưới gốc cây nơi hoang vắng nghĩ thương chúng sanh lăn lộn cực khổ theo dòng sống chết, không thấy vô thường, khổ, không, vô ngã, vì bị tham dục mê hoặc, khổ càng tăng lên gấp bội.

Có người Phạm Chí từ xa, nghe vua Trường Thọ thích bố thí, cứu giúp kẻ nghèo, cứu mạng sống của chúng sinh, ông tìm đến cũng dừng nghỉ bên gốc cây

này. Đôi bên hỏi thăm nhau, mỗi người kể rõ hoàn cảnh của mình. Vị Phạm Chí kinh ngạc nói:

- Thiên Vương làm sao ra nông nỗi này? Rồi rơi nước mắt tự than thở:

- Nhưng năm tàn của đời tôi không còn bao lâu nữa, nên tôi định đến xin Ngài tiếp sức cho cái mạng thừa này. Nhưng đại vương đã mất nước thời mạng tôi cũng tàn rồi! Vừa nói ông vừa than khóc.

Vua nói:

- Ông nghèo khó, từ xa tìm đến, lại gặp lúc ta mất nước, không có gì giúp ông được, thật ta vô cùng đau xót; Và nói tiếp:

- Ta nghe vua mới đang treo giá bắt ta rất hậu, vậy ông hãy lấy đầu ta đem đến đó để được trọng thưởng.

Phạm Chí không dám nhận lời đề nghị. Nhà vua phân tích: thân này là đồ mục nát, không giữ được lâu. Có sinh ắt có tử, không ai trường tồn được đâu. Nếu ông không lấy rốt cuộc nó cũng thành tro bụi mà thôi. Thế rồi Phạm Chí dắt vua đi… Đến cửa thành cũ, vua bảo Phạm Chí trói mình lại nạp cho vua tham kia. Người trong nước thấy vua như vậy, thương xót, kêu gào thảm thiết. Người Phạm Chí nhận thưởng. Vua mới ra lịnh đem vua Trường Thọ đến ngã tư đường thiêu sống. Biết được tin ấy dân chúng thương xót kéo nhau tới hiện trường vật vả kêu cầu gào khóc. Thái Tử Trường

Sanh giả làm người bán củi tới đứng trước mặt cha. Vua thấy con liền ngửa mặt lên trời nói:

- Nếu trái lời cha dặn, chất chứa hung độc, lòng mang oán hận thời chuốc họa muôn đời, không phải là người con hiếu. Ta vì theo đạo mà tự giết thân mình để cứu giúp chúng sanh, còn sợ là không tròn chút hạnh của đạo hiếu, huống lại làm chuyện ngỗ ngược báo thù sao? Vâng lời ta dạy mới là hiếu vậy.

Thái Tử đau lòng không nở nhìn cha chết nên liền trở về núi sâu. Nhà vua mạng chung, Thái Tử khóc thương vật vả nói:

- Vua cha của ta tuy lúc lâm chung đã có lời dạy hết mực nhân từ, nhưng chắc ta phải trái lời dạy đó, phải diệt trừ loài thú dữ độc hại kia,

Sau khi rời núi Thái Tử tìm chỗ thuê mướn mình làm người trồng rau cho một vị quan. Công việc vườn tược rất tốt. Một hôm vị quan gọi người làm vườn đến hỏi:

- Người còn có khả năng gì nữa? Người kia đáp:

- Khéo cả trăm nghề, tôi đều đứng đầu.

Vị quan mời vua tham kia đến và bảo anh ta nấu ăn dâng lên vua thưởng thức. Vua phát hiện được tài năng của anh, liền hỏi vị quan. Vị quan đem hoàn cảnh hiện tại của anh thưa lên. Vua bèn nhận anh về làm quan ngự thiện (coi việc bếp

núc) rất được tin tưởng. Dần dần Thái Tử Trường Sanh được vua tham cất nhắc lên chức quan cận thần, bảo:

- Con của vua Trường Thọ là kẻ trọng thù với ta, nay ta dùng ngươi làm quan cận vệ.

Thái tử chấp thuận ngay. Một hôm, vua cùng Thái Tử đi săn, Vì rượt đuổi theo con mồi, vua lạc đường chỉ còn lại Trường Sanh bên cạnh. Họ ở trong núi đến ba ngày đói khát, khốn khổ vua bèn tháo kiếm trao cho Trường Sanh, rồi gối đầu lên đùi Thái Tử mà ngủ. Trường Sanh nói:

- Nay ta đã được người mà không giết ư?

Liền rút kiếm muốn chém đầu vua tham, song chợt nhớ lại lời cha dặn: “Trái lời dạy của ta là bất hiếu”, nên dừng lại tra kiếm vào võ. Vua tham tỉnh giấc nói:

- Ta vừa mơ thấy Trường Sanh muốn chém đầu ta. Phải làm sao đây?

Thái Tử đáp: - Núi có quỹ dữ, vui thích việc nung nấu, nhưng có thần bên cạnh, còn lo sợ gì nữa.

Thế là vua ngủ tiếp. Sự việc như trên lại tái diễn đến lần thứ ba, Thái tử liền ném kiếm, nói:

- Ta vì cha ta nhân từ mà tha mạng cho người đó ! Vua tỉnh dậy nói:

Ta mơ thấy Thái tử Trường Sanh đã tha mạng cho ta rồi.

Thái Tử nói rằng, Trường Sanh chính

là tôi đây! Nhớ cha nên đã theo đuổi kẻ thù đến hôm nay! Cha tôi đến lúc chết mà miệng vẫn còn dạy tôi lời nhân từ, tôi tuân theo đạo lý nhẫn nhục, đem thiện trả ác của chư Phật. Nhưng tâm tánh tôi ngu muội, muốn đem hai thứ độc ấy để lẫn vào nhau, ba lần nghĩ tới lời dạy của Cha thì ba lần đều buông kiếm. Vậy xin đại vương hãy giết tôi đi để trừ hậu hoạn. Thân chết, hồn lìa thời ý ác không còn nữa.

Quá đổi xúc động, vua tham hối lỗi, nói:

- Ta làm việc bạo ngược không phân biệt thiện ác, tiên vương của ngươi hạnh cao khiết, thà mất nước chứ không mất hạnh, đáng gọi là bậc thượng Thánh. Ngẫm lại mình, ta là giống sài lang, tàn hại sinh linh để đuợc thỏa mãn lòng tham. Nay mạng sống của ta ở trong tay ngươi, mà ngươi tha không giết, sau này há dám làm trái đạo nữa sao! Tỉnh thần, vua muốn tìm đường trở về nước.

Lúc đó, Trường Sanh mới cho hay, việc lạc đường này đều do mình sắp đặt. Rồi Thái Tử đưa vua ra khỏi rừng, gặp lại các quan tùy tùng. Vua hỏi:

Các ông có biết Thái Tử Trường Sanh không? Họ đáp: Không. Vua chỉ người này là Thái tử Trường Sanh, nay sẽ trở về nước, còn ta sẽ trở lại nước cũ. Từ nay kết làm anh em, họa phúc có nhau.

Ngày Thái Tử Trường Sanh lên làm vua, cả nước vừa vui vừa buồn, mọi người đều hết lời chúc tụng. Vua tham trở về nước mình, nối lại việc triều cống

như xưa, nên đất nước được thái hòa, nhân dân an lạc. (Kinh Bản Duyên tập 10, Linh Sơn Pháp Bảo Đài Bắc ấn hành năm 2000 dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh).

Xem như thế để thấy do đâu mà trận chiến đẫm máu không xảy ra giữa hai nước? Mối thù truyền kiếp giữa hai nhân vật hàng đầu lãnh đạo đất nước được mở trói không oán kết?

Sự quyết định tối hậu do đức vua nhân từ đức độ chọn giao đất nước cho kẻ xâm lăng, không làm tổn hại một mảy may vật lực, tài sản quốc gia, lại cứu sống được cho hàng vạn dân lành khỏi lâm cảnh máu đổ đầu rơi trong cuộc chinh chiến, dù được che đậy dưới bất cứ chiêu bài, nhãn hiệu hay sách lược nào của kẻ thắng cuộc. Thật quả, khuôn nào đúc ra mẫu đó, vua Trường Thọ chết đi mà gương lành vẫn còn sáng ngời soi rạng cổ kim; Thái tử Trường Sanh xứng đáng là người con hiếu thảo, vâng lời và hiểu biết. Nếu không nhờ ảnh hưởng đức hiếu sinh và độ lượng của cha, làm sao thái tử có đủ tâm từ tha cho kẻ thù đã lọt vào tay mình, vẫn đủ sáng suốt chọn cách tốt nhất để dứt mối họa không còn di hại về sau, bằng cách tha mạng cho kẻ thế cô, lực cùng. Nhờ đức độ của nhà vua và Thái Tử mà cảm hóa được vị vua tham theo về chánh đạo. Ôi, cao đẹp biết bao! Thánh Thiện dường nào! Văn chương, ngôn từ hay bút mực nào có đủ diễn đạt cho được hạnh đức của tiền nhân.

Đệ tử của Phật, tại gia và xuất gia nguyện tinh tấn tu tập, phát Bồ Đề Tâm, hành Bồ Tát đạo nhiệt thành chọn pháp thích hợp, lợi lạc, không chọn pháp chỉ có lợi cho mình mà làm phương hại cho người khác và mọi loài chúng sanh. Chỉ như thế, ta mới chứng tỏ thực hành đúng như pháp.

Sydney, ngày 7 tháng 1 năm 2014

Sa môn Thích Bảo Lạc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2012(Xem: 4781)
Trau dồi từ ái làm tiến bộ nguyện ước chúng sinh đánh mất hạnh phúc sẽ gặp gở hạnh phúc và nguyên nhân của nó. Bây giờ, mục tiêu là để mở rộng chu vi từ ái của chúng ta vượt khỏi phạm vi hiện tại. Chẳng hạn sự mở rộng sẽ đến một cách tự nhiên trong sự thực tập của chúng ta sau khi đã phát triển một cảm nhận tình cảm với người khác, những người muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.
04/04/2012(Xem: 3923)
- Kính bạch thầy, tôi là người không theo đạo Phật, nhưng tôi thấy tại sao thế giới này chiến tranh hoài mà không có ngày thôi dứt. Vậy kẻ thù của nhân loại là ai? Thầy trả lời: Đây là câu hỏi dường như dễ, nhưng lại là khó! Vì sao? Chẳng lẽ con người với nhau mà là kẻ thù, coi sao được? Nếu không phải là kẻ thù, vậy ai chính là thủ phạm? Xin thưa, kẻ thù của nhân loại là “chính mình”, đây là một sự thật ít ai ngờ tới. Để hiểu được rõ ràng, thầy sẽ kể cho bạn một câu chuyện có tính cách minh họa và ẩn dụ sâu sắc, để ta và người cùng tìm ra kẻ thù đang tiềm ẩn ở đâu? Một nhà sư nọ thường có những biểu hiện nóng giận, tham lam và ích kỷ. Mặc dù xuất gia đầu Phật đã lâu nhưng những cố tật ấy, làm cho nội tâm của thầy luôn bị khủng hoảng. Vốn là người quyết chí tu hành thoát ly sống chết đời này, nên nhà sư luôn tự quán xét lại chính mình mà thấy rõ bệnh “ ngu si chấp ngã” rất nặng nề và từ đó thầy quyết tâm lập chí làm mới lại chính mình.
04/04/2012(Xem: 3162)
1-Người Phật tử cần phải thiền trong đi đứng nằm ngồi, trong sinh hoạt hằng ngày sẽ giúp cho chúng ta nhận biết được rõ ràng những ý nghĩ, lời nói, hành động của mình là thiện hay bất thiện, để ta sửa sai điều xấu ác và biết phát huy điều tốt đẹp. 2-Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình để có được an lạc hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và xã hội. 3-Người Phật tử khi đi chùa phát tâm cúng dường phải biết nhu cầu ở trong chùa là gì, để việc phát tâm cúng dường của chúng ta có được lợi ích thật sự mà không lãng phí xa hoa.
31/03/2012(Xem: 3389)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai chạy... Quãng đời nghiệp chướng Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.
31/03/2012(Xem: 3429)
Vì nhân duyên ta lại gặp nhau Giữa dòng đời tất bật, ngược xuôi Sống dưới mái ấm gia đình Ta dành cho nhau chút tình yêu thương. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời mấy ai được nghĩa vẹn toàn Ta yêu thương trong dày vò Ta đến với nhau vì thiếu hiểu biết.
29/03/2012(Xem: 3269)
Chúng ta đến với nhau Bằng tình yêu luyến ái Là tự mình ràng buộc Trong nhiều kiếp mai sau. Muốn chấm dứt sống chết Hãy diệt trừ tham ái Chuyển hóa sự vô minh Để sống đời hạnh phúc.
26/03/2012(Xem: 3266)
Nhân quả là chân lý sống, không thể thiếu trong gia đình và xã hội, nơi nào không tin nhân quả sẽ sống trong loạn lạc, phi đạo đức. Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Còn ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân, miệng, ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy, thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm dám chịu không đổ thừa cho ai.
17/03/2012(Xem: 9616)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
12/03/2012(Xem: 3588)
Duy thức, như tất cả các con đường khác của Phật giáo, nhằm đến mục tiêu chiến lược là thấy được “hai vô ngã: nhân vô ngã và pháp vô ngã”. Nhân vô ngã là con người vô ngã. Pháp vô ngã là mọi hiện tượng đều vô ngã. Thấy được hai vô ngã là thấy thực tại tối hậu, gọi là tánh Không, Niết-bàn, Pháp thân, Chân Như… Nói theo hệ thống Duy thức, thấy hai vô ngã là giải tan Biến kế sở chấp tánh để Viên thành thật tánh hiển bày. Sanh tử là do không biết rằng tất cả đều do thức biến hiện. Kinh Lăng Già đời Tống, Cầu-na Bạt-đà-la dịch: “Thế nào người trí ở ngay nơi lầm loạn này mà khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, ở bên ngoài đều vô tự tánh nên chẳng có tướng vọng tưởng”.
02/03/2012(Xem: 3379)
Qua mắt chúng ta, thấy đó là trả nghiệp, đáng sợ, song với Tổ đã không thấy thật, nói gì là trả. Cũng như ông A khi chưa hiểu đạo, bị ông B làm vài hành động không vừa lòng, ông liền mắng chửi ông B. Thời gian sau, ông A hiểu đạo, đúng lúc ông B trả thù mắng chửi thậm tệ hơn trước. Song ông A thấy lời nói không thật, không có gì quan trọng, nên vẫn tươi cười không buồn, không đổi nét mặt. Như thế ông A có trả nợ trước hay không trả nợ trước? Thật sự, nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác ở chỗ mê thì thấy thật, ngộ thì thấy không thật. Ðã không thật thì trả cũng như không trả. Vì thế, nói "liễu tức nghiệp chướng bản lai không". Cứu kính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuy không thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]