Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năng lực cầu nguyện

12/01/201419:19(Xem: 10399)
Năng lực cầu nguyện
tayphuong1
Năng lực cầu nguyện
Thích Trí Siêu

Trong một cuộc thử nghiệm, giáo sư Masaru Emoto đã nhờ 500 người dân sống ở các vùng khác nhau trên nước Nhật tham gia. Vào một thời điểm nhất định được thông báo trước, giáo sư Emoto đặt một ly nước lên bàn rồi yêu cầu mọi người nghĩ đến tình thương và cầu nguyện cho ly nước đó trở nên trong sạch.

Nếu mẫu nước lấy từ vòi nước công cộng bị ô nhiễm ở quận Shinagawa, Tokyo, sau khi được làm đông đặc và chụp hình thì cho thấy tinh thể có dạng "Méo mó, kỳ quái". Cũng từ mẩu nước trên, sau khi được 500 người ở những nơi khác nhau cùng chú nguyện bằng tình thương thì ảnh chụp tinh thể nước đá cho ra hình bông hoa sáu cánh rất tươi đẹp. Điều này chứng minh rằng tư tưởng của nhiều người, dù ở cách xa nhau, vẫn có thể được tập trung và ảnh hưởng trên một đối tượng. 

Lần nọ, sau khi được biết vị Sư trưởng Houki Kato của tu viện Mật tông thường hành lễ cầu nguyện trên đập Fujiwara, quận Gunma, giáo sư Emoto liền đến làm cuộc thử nghiệm, ông lấy một mẩu nước trong đập trước buổi cầu nguyện. Vị sư trưởng tụng kinh cầu nguyện hết sức trang nghiêm trong vòng một tiếng, và chưa đầy mười lăm phút sau đó, mọi người tham dự, kể cả ông Emoto, cùng ồ lên ngạc nhiên vì nước trong đập đã hoàn toàn thay đổi. Trước khi cầu nguyện, nước trong đập đục ngầu, không soi thấy hình. Giờ đây nước trở nên trong sạch và người ta nhìn thấy được hình cây cối soi trên mặt nước. Đương nhiên ông Emoto đã lấy mẩu nước sau buổi cầu nguyện đem về chụp hình tinh thể. Kết quả như ông đoán trước, nước trong đập trước khi cầu nguyện cho ra hình dạng xấu xí giống như mặt người đau khổ sắp chết, còn nước sau khi cầu nguyện cho ra tinh thể hình bông hoa sáu cánh tuyệt đẹp, với một đốm hào quang bên trong.

Chúng ta thường nghĩ nước chỉ là một chất lỏng vô tri, vô giác, nhưng thực tế nó rất nhạy cảm và phản ứng với những gì chúng ta suy nghĩ, nói năng. Để chứng minh điều này, giáo sư Emoto đã thử nghiệm cho người nói lời "Cảm ơn" vào một mẩu nước lọc. Sau đó ông chụp ảnh tinh thể và thấy nó cho ra hình bông hoa sáu cánh tươi đẹp, bày tỏ sự trang nhã, lịch sự như cảm nhận được lời cảm ơn của chúng ta. Ngược lại, khi cho người mắng câu "Đồ ngu" vào cùng mẩu nước lọc thì nó không còn cho ra hình bông hoa nào hết mà chỉ còn lại những đốm lăn tăn như mảnh vỡ. 

Trên đây chỉ là vài thí dụ khoa học cho thấy năng lực của sự cầu nguyện có ảnh hưởng với nước. Và nước là chất cấu tạo 70% cơ thể con người. Do đó nếu biết cầu nguyện, nói cách khác là khởi lên những tư tưởng và lời nói tốt lành thì chúng ta có thể thay đổi được hóa chất của nước trong cơ thể, có thể từ bệnh hoạn trở nên khỏe mạnh. Và ngược lại, nếu chúng ta khởi lên những tư tưởng và lời nói xấu ác thì có thể đi từ khỏe mạnh đến bệnh hoạn.

Đương nhiên không phải sự cầu nguyện nào cũng cho ra kết quả như ý, vì nếu cầu gì được nấy thì trên thế gian này đã có hàng tỷ người triệu phú và không còn ai bị già, bệnh, chết, đau khổ nữa. Đạo Phật Nguyên thủy không chủ trương cầu nguyện mà chú trọng vào sự tu tập diệt trừ tham, sân, si. Tuy nhiên không phải vì thế mà cầu nguyện không có ảnh hưởng. Phật giáo Đại thừa và Mật tông biết được năng lực của sự cầu nguyện nên đã khai triển và áp dụng vào sự tu tập.

Theo vật lý lượng tử (quantum physics) thì tất cả sự vật đều là những lượng tử rung động với tần số (frequency) khác nhau. Nếu biết thay đổi tần số rung động của lượng tử thì thay đổi được vật chất. Một ly thủy tinh có thể tan vỡ khi gặp một âm thanh cộng hưởng (resonance). Cũng thế, người ta biết dùng máy siêu âm (ultrasound) để bắn tan những viên sạn thận mà không cần phải mổ. 

Tâm là một thứ đặc biệt nhất trên thế gian, bởi vì nó có khả năng thay đổi sự rung động. Không ai có thể thấy được tâm, nhưng người ta có thể đo được điện sóng não tượng trưng cho sự hoạt động của tâm. Khi tâm suy nghĩ quá nhiều thì người ta đo được sóng não ở dạng beta. Khi suy nghĩ bớt dần thì sóng não ở dạng alpha, khi lắng hơn nữa thì sóng ở dạng theta, và khi tâm hoàn toàn yên lặng nghỉ ngơi thì sóng ở dạng delta. 

Những người cầu nguyện hay quán tưởng, khi chú tâm hết mức vào một đề mục nào đó thì sẽ phát ra những làn sóng cực mạnh, và nếu có nhiều người cùng cầu nguyện với sự thành tâm hướng về một đối tượng thì những làn sóng này sẽ hòa vào nhau tạo ra một sự rung động cộng hưởng (resonance) và năng lực của nó mạnh vô song, có thể thay đổi sự rung động của vật chất, và từ đó làm thay đổi sự vật mà danh từ bình dân gọi là "Phép lạ".

Cầu nguyện đơn giản chỉ là một sự hướng tâm về một đề mục. Nhưng đa số sự hướng tâm của chúng ta rất yếu ớt thiếu tập trung nên không đủ tạo ra sức mạnh thay đổi sự vật. Người tu thiền định hay thiền chỉ trên hình thức ngồi yên lặng không nói năng ồn ào nhưng so ra họ cũng làm tương tự như người cầu nguyện là hướng tâm về một đề mục. Khi sự hướng tâm hay định tâm tới mức cùng cực thì họ cũng có thể làm được "Phép lạ". Vì sao? Vì "Phép lạ" là khả năng thay đổi sự vật tùy theo "tâm" muốn. Các vị A-la-hán không cầu nguyện nhưng chỉ cần chú nguyện hay khởi ý thì phép lạ xuất hiện. Thí dụ như trường hợp của Nguyệt Quang đồng tử Bồ tát trong kinh Lăng Nghiêm, chuyên tu quán tưởng về nước. Khi ngài nhập định thì nước hiện ra lai láng xung quanh và đệ tử đi qua cũng trông thấy. Do định tâm mãnh liệt về nước, ngài đã thay đổi sự rung động của các nguyên tử hiện diện trong căn phòng và khiến chúng rung động (vibrate) theo tần số của nguyên tử nước (H2O), và từ đó nước xuất hiện xung quanh ngài. Loại nước này không phải tự nó sẵn có mà do tâm định của ngài ảnh hưởng tạo nên, trong kinh gọi là "Định quả sắc", tức là một hình sắc vật chất xuất hiện do tâm định áp chế. Đến khi ngài xả định, tâm không còn tập trung về nước nữa thì các nguyên tử nước này tan rã trở về trạng thái không khí trước đó. 

"Tâm sinh các pháp sinh, tâm diệt các pháp diệt", nếu chúng ta không tu thiền hay nhập định được thì có thể cầu nguyện, và nếu cầu nguyện hết sức thành tâm thì phép lạ có thể xảy ra. Tuy nhiên theo luật của vũ trụ pháp giới, nếu sự cầu nguyện mang tính chất vị ngã, ích kỷ, tham lam, sân hận thì dù có thành tâm cách mấy đi nữa cũng không thành.

(1) Sóng beta có tần số từ 14 đến 30 Hz (Hertz) trong một giây.

(2) Sóng alpha có tần số từ 9 đến 13 Hz.

(3) Sóng theta có tần số từ 4 đến 8 Hz.

(4)Sóng delta có tần số từ 1 đến 3 Hz.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5702)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 15527)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4963)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5483)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5556)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5426)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6143)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4998)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4846)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 16069)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]