Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con người và triết lý nhân sinh

09/04/201317:29(Xem: 4314)
Con người và triết lý nhân sinh
CON NGƯỜI & TRIẾT LÝ NHÂN SINH

Nhụy Nguyên

“Con người là chủ nhân vũ trụ”, nên đổi cách nói thông dụng này thành: “Con người là chủ nhân của trái đất”; như vậy cũng chỉ tạm chấp nhận được. Bởi trên không gian quả địa cầu còn nhiều cảnh giới khác nhau cùng tồn tại. Đơn cử như không gian của người âm. Con người là chủ nhân, là trung tâm. Vậy điều trọng yếu ta phải trang bị là gì nếu trước hết không phải triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh là gì? Đó chính là phần cơ bản trong đạo Phật. Đạo Phật nêu ra một cách chi tiết và sinh động về các tầng trời, cõi Phật - có vẻ xa vời.Nên chỉ bàn đến điều gần nhất với con người, ấy là sự sống sau cái chết. Có hay không cõi âm? Chưa cần trực ngộ, chưa cần chau mày nhăn trán nghĩ suy; đất nước chúng ta có hẳn một Viện nghiên cứu về vấn đề này.

Một nhà ngoại cảm bằng khả năng có được “từ cõi chết trở về” đã nói chuyện với hơn mười nghìn liệt sĩ, những tưởng thừa lý do để đục bỏ ba chữ “chết là hết” cùng một dấu chấm than chạm khắc trên tấm bia chấp thủ của bao người. Gần đây, Phan Thị Bích Hằng, qua sự tiếp xúc với người âm đã thấy được sự nhiệm màu: sống không tu tập, chỉ có đạo Phật mới cứu được con người bên kia thế giới. Trong một đại lễ cầu siêu, cô Hằng cũng thấy Thượng Dương hoàng hậu do sân hận với Nguyên Phi Ỷ Lan nên sau hàng ngàn năm vẫn chưa “siêu thoát”, vẫn còn chen lấn cùng chúng sinh bốc cháo và đồ vãi cúng…

Để người âmđược giải thoát, người trụ lễ cầu siêu nhất thiết phải là bậc minh tu, Hòa thượng, bậc chứng quả đắc đạo… Nên siêu thoát ở đây, thiết nghĩ phải bỏ trong ngoặc kép, bởi siêu thoát đúng nghĩa phải là thoát khỏi luân hồi sinh tử, ví như lên được Tây phương Cực lạc. Có thể ví sự siêu thoát trên như một cán bộ tại cơ quan nọ trước đây làm việc trong căn phòng tối tăm chật hẹp, ẩm mốc, nay được chuyển tới gian phòng rộng, thoáng đãng sạch sẽ hơn; đó cũng có thể là tầng trời thấp nào đó, chứ chưa thay đổi cảnh giới! Mỗi cảnh giới có thời gian khác nhau. Chúng ta biết các liệt sĩ được tiếp chuyện với nhà ngoại cảm, sau mấy chục năm họ vẫn ở “tuổi hai mươi”, vẫn không già [bao nhiêu]. Biết đâu ở cõi ấy, một năm chỉ bằng một ngày ở cõi dương.

Đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu một lần lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ, phải lòng liền cưới làm vợ. Nửa năm [ở trời] chợt nhớ cõi trần da diết nên quyết định xuống thăm bà con họ hàng. Đâu ngờ chẳng còn ai. Ngẩn ngơ hỏi han mãi mới biết người thân giờ đã trở thành thiên cổ qua bao đời. Thượng Dương hoàng hậu sau hàng ngàn năm, nhà ngoại cảm cũng thấy bà “như cũ”. Như vậy có thể người âm sau nhiều năm [ngồi chưa ấm chỗ] họ vẫn chưa đến thời điểm chịu nghiệp quả tạo tác ở đời hoặc họ đã nhận chịu sự thống khổ vô biên nhưng “bất khả lộ”, hay họ chưa phải đầu thai vào các nẻo trong lục đạo. Hoặc gần giáo lý Phật hơn, chính là do còn chấp nê thân mình; đó chỉ là sự tác động của thần thức, là “ảo” (thực tế thần thức của họ đã đi đầu thai); nếu [hồn] họ chịu tới chùa nghe kinh, nghe giảng Pháp, niệm Phật khắc sẽ thâm nhập được vào một cõi nào đó không tệ để rút ngắn thời gian cập bến bờ Tịnh độ.

Các nhà ngoại cảm nói chung chưa thể nhìn thấy cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, a tu la… (phải người chứng Đạo mới thấy được). Họ chỉ mới thấy cảnh giới Thân trung ấmvà “những vấn đề xung quanh”. Điều này cũng là một hạn chế lớn khi soi vào định luật nhân quả, rộng hơn là không tránh khỏi khiến ai đó hiểu không thật đúng sự vi diệu của Phật pháp.Ngay cả người thân của Phật. Vào thời điểm xảy ra chiến tranh, Mục Kiền Liên liền xuống trần gian hốt quyến thuộc của Phật vào bát mang lên trời lánh nạn; cuộc chiến chấm dứt, Ngài xuống lại trần gian đổ bát ra thì thấy… toàn máu!

Đạo Phật hàng ngày nhắc nhở nhân loại hãy thức tỉnh. Bộ óc của con người thật vĩ đại, ai uyên bác không chừng nạp được hết thảy kiến thức liên mạng; chỉ trừ Phật pháp. Mức độ nghiêm trọng hơn khi nhân loại gán cho đạo Phật là một tôn giáo. (Chữ giáogắn sau Phậtphải mang nghĩa giáo dụcmới đúng, chứ không phải là giáo thuyết. Thật nực cười: tôn giáo [Phật giáo] lại không có giáo chủ. Đạo Phật hoàng toàn không có giáo chủ! Trong Kinh Nền Tảng Đức Tincó hai điều sau đủ thấy Đức Thế Tôn không phải giáo chủ:(1)chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở; (2) chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.Phật chỉ giảng ra những điều mình thấy [lúc đại triệt đại ngộ].

Ai nghe rồi hãy hành trìvà tự chứng xem có đúng không? Không đủ cơ duyên thì tự bỏ Phật, không một văn bản nào ràng buộc. Từ thời điểm 500 vị chứng quả A la hán đầu tiên do tổ Ca Diếp tập hợp để làm chứng cho việc chép lời Phật dạy [thành Kinh], (hễ một trong 500 vị ấy bảo lời này không đúng của Phật lập tức phải bỏ ra) cho đến nay đã rất nhiều người “giấu mặt’ chứng thánh quả, vẫn chưa ai “giải thiêng” một câu Kinh Phật. “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành” - câu nói của thầy giáoThích Ca Mâu Ni nhẹ như mây khiến những người tu cúi lạy [tượng Phật] vạn lần còn mang ơn trọng. Các tầng cảnh giới gần như là sự đặc định từ vũ trụ.

Nếu cõi người không cần pháp luật để trị ác nhân thì vũ trụ này cũng đâu cần tạo ra các tầng để ân sủng Phật và ngược lại là đọa đày chúng sinh. Phật thấy chúng sinh quằn quại trong địa ngục, nhớp nhúa quăng quật trong cõi súc sinh, giằng xé nhau trong cõi ngạ quỷ và ganh đua tham đắm trong cõi người, a tu la nên đã cùng các Bồ tát hạ mình xuống cứu vớt. Nếu chúng sinh thấy được công ơn vô lượng của các Ngài, thì sẽ không một ai lại kêu: “Sao cuộc đời lắm bất công oan trái!”. Con người không chịu tu để vói tay “lên trời” nên cứ đinh ninh “nho còn xanh quá”. Một người nông dân nghèo họ thường ăn cơm vào buổi sáng để đủ sức lên đồng; cơ may nào đó được lên phố làm việc công sở lương bổng kha khá thì chuyển qua dùng bún cho buổi sáng. Sau một thời gian dư dả họ lại tìm đến những quán ăn sáng xa xỉ hơn, dẫn đến tình trặng tìm kiếm“cảm hứng” cho vị giác.

Một người tu, nhờ năng lượng của thiền định và thanh lọc tâm tịnh sáng, một thời gian họ thấy không còn nhu cầu điểm tâm sáng nữa; chuyên tâm miên mật hơn người tu trở thành một thiền sư nhập thất hàng tháng hàng năm trời không cần ăn uống. Người nông dân [trở thành cán bộ] kia sẽ không hề chạm tay được vào niềm hạnh phúc vô bờ của người tu [trở thành thiền sư] khi đã dứt được cái sự ăn uống. Và nhiều niềm hạnh phúc tối thượng khác như dứt phiền não, ngũ dục lục trần… những thứ mà người phàm càng cố khoanh vùng hưởng thụ càng thấy bất lực khi thời gian dành cho sự tỉnh thức của mình dần ráo cạn.

Con người - chủ nhân của trái đất lẽ nào lại phớt lờ căn cốt triết lý nhân sinh?! Không tin có đời saulà không muốn biết đến căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nhân quả báo ứnglà không muốn biết đến căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin luân hồi sinh tửlà không muốn biết đến căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nếu tu tập đúng theo cách chỉ dạy của Phật sẽđứng hẳn ra ngoài Tam giới trọn vẹn hết khổ đaulà không muốn biết đến căn cốt của triết lý nhân sinh, v.v. Con người lẽ nào muốn trang bị tất cả những triết lý khác trước rồi mới trang bị điều căn cốt của triết lý nhân sinh?

Con Người tin sâu căn cốt triết lý nhân sinh, nghĩa là tin sâu lời Phật; sẽ không còn nghĩ ác, không còn hành vi bất thiện, dẫu cho sự nghĩ và hành vi ấy không ai nào biết đến. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm mười hai có 3 câu: “Đại hải Long Vương lúc làm mưa/ Có thể phân biệt đếm từng giọt/ Ở trong một niệm biết rõ ràng”.Hằng ngày ta vẫn giấu những việc xấu - gọi là nghiệp; và khoe khoang việc tốt, những việc liên quan đến từ thiện - gọi là đức. Mới chỉ Đại Hải Long Vương thôi trong một niệm đã đếm được bao giọt mưa trong một trận mưa, huống hồ các Bồ tát và Phật. Phật trong một niệm biết bao nhiêu lá rụng trong rừng. Tựa như lúc ta đóng ngoặc kép dòng tên một người nổi tiếng cho vào google rồi enter, trong một giây sẽ cho ra hàng triệu kết quả.

Phật thấu suốt đức nghiệp của hết thảy chúng sinh. Những việc xấu ngay cả mới khởi ý niệm vi tế thôi đã có trung tâm xử lý nhân quảghi lại. Còn với việc thiện, ta chỉ nên nói ra ở mức độ vừa phải để khơi dậy lòng tốt từ những người xưa nay chưa biết đến khái niệm “mở hầu bao” hiệp nghĩa. Hãy dè sẻn ở mức tối đa hành động thiện nguyện của mình, mà tốt nhất hãy lấy minh chứng công đức từ những người thật ta từng chứng kiến, càng gần ta và càng gần người ta muốn phục thiện càng tốt.

Sau 7 ngày thiền định dưới cội Bồ đề, Phật chứng quả đầu tiên là Túc mạng minh - thấy rõ ràng những đời quá khứ, vị lai.Cuộc đời một sinh mệnh trong Tam giới như sợi dây giăng ngang trời với vô vàn nút thắt, mỗi nút đánh dấu một kiếp, quãng giữa các nút dài ngắn tùy thuộc vào số mạng, vào các kiếp [là người trần hay người trời, a tu la hay súc sinh, ngạ quỷ…]. Con người nói chung đều phải bám vào quả địa cầu quay tít mù và luôn trong cảm giác lo sợ run tay mỏi gối văng vào các nẻo thấp thua. Dẫu sao, biết sợ điều ấy cũng xem như bước giác ngộ đầu tiên vậy.

Nguồn: thuvienhoasen.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 6256)
Nói đến chữ Tâm chẳng phải chơn, vọng, hữu, vô có thể phân biệt được; chẳng phải văn tự lời nói có thể diễn tả được. Nhưng các bậc Thánh ca ngợi, các Hiền triết giải thích, ngàn lối khác nhau, chỉ là tùy theo đương cơ mà giả lập phương tiện, cuối cùng đều qui về một pháp mà thôi.
15/04/2013(Xem: 3364)
Tư tưởng Đức Phật như một buổi đại yến tiệc, mà nói như nhà thơ Bùi Giáng, chỉ cần một hạt cơm thừa trên bàn tiệc đó cũng quá đủ để chúng ta thụ dụng suốt bình sinh. Điều đó ta càng dễ dàng cảm nhận khi đi sâu vào thế giới kinh điển Phật giáo.
09/04/2013(Xem: 4504)
Chúng Tôi Học Kinh: Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, Duy Thức Học, Tàng Thức hay A Lại Da Thức, Duy Thức Học, Ý Thức và Mạt Na Thức, Khinh Hoa Nghiêm, Kinh Di Giáo, Phát Bồ Đề Tâm Văn, Kinh Duy Ma Cật, . . .
09/04/2013(Xem: 6185)
Có hai khái niệm sâu sắc, tinh tế và phổ biến trong tất cả các kinh điển Đại-thừa (Truyền thống Phật giáo Phát triển) là Bồ tát và Tánh không. Thật ra, hai khái niệm này có nguồn gốc từ kinh tạng Pali (Truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ). Nói cách khác, tác phẩm này nhằm giới thiệu quan điểm sống và phương pháp tu tập thực tiển để tuệ giác Tánh không và minh chứng với các đọc giả những học thuyết trong Phật giáo Đại thừa và Nguyên thuỷ thực chất là cùng nguồn gốc, bản chất và mục đích.
09/04/2013(Xem: 3714)
Duyên khởi (prat´tya-samutpŒda) là giáo lý quan trọng nhất của Phật giáo, nó là giáo lý được đức Thế Tôn chứng ngộ dưới cội cây Bồ đề (Bodhi), trước khi Ngài trở thành đấng giác ngộ, bậc Đạo sư cho chư Thiên và loài người.
09/04/2013(Xem: 6396)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
08/04/2013(Xem: 6194)
Hành giả học Phật điều kiện đủ là phải học qua ba học Giới-Định-Tuệ, để từ đó hiểu được cốt lõi của sự thực hành tu tập phải đặt nền tảng căn bản từ đâu mà thanh tịnh hóa ba nghiệp thân-khẩu-ý đưa đến giải thóat tất cả mọi thứ phiền não và đạt an vui tịch tĩnh trong cuộc sống?
08/04/2013(Xem: 10445)
Nhân sinh nhật lần thứ 57 (kể theo tuổi ta) của tôi năm nay (28.6.2005) có một Phật Tử Việt Nam tại New York, Mỹ Quốc, gởi tặng cho tôi một bộ kinh Kim Cang rất quý, có xuất xứ từ đời nhà Thanh (Trung Hoa) và chính do vua Khang Hi (1666-1722) viết, được phục chế lại. Quả là một món quà vô giá.
08/04/2013(Xem: 3095)
Tìm nơi nương tựa - quy y - là một hành động chung của hàng Phật tử, căn bản cho các công phu hành trì trong Đạo Phật. Bất cứ luận thuyết, tông phái và pháp hành nào của Phật giáo đều bắt nguồn từ hành động quan yếu nầy ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]