Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điều tôi học được...

19/10/201307:46(Xem: 8713)
Điều tôi học được...

Matthieu Ricard

Điều tôi học được- Kinh nghiệm sống của nhà sư Phật giáo Matthieu Ricard, 67 tuổi.
No. 3235 (Như Quang dịch)

Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói.

Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”

Sau đây là câu chuyện đời của Ngài.

Mọi người đều có thể trở nên người hạnh phúc nhất thế giới nếu họ tầm cầu hạnh phúc đúng nơi. Vấn đề là chúng ta không muốn.

Hạnh phúc không phải là việc theo đuổi những kinh nghiệm vô tận. Hạnh phúc là sự biểu hiện của một trạng thái và điều khó khăn là để cho trạng thái đó làm chủ tất cả các tình cảm khác.

Khác với sự thỏa thích, sẽ tự mất đi ngay khi bạn kinh nghiệm được, hạnh phúc là một kỷ năng và được tu tập. Chúng ta đều có khả năng gặt hái hạnh phúc. Bạn phải xem xét điều gì làm khởi sắc cho cuộc đời của bạn. Theo Phật giáo chúng ta cho rằng nguồn gốc của sự đau khổ chính là vô minh.

Hạnh phúc là vạch ra một lằn ranh. Đó không phải là tìm kiếm những ngọn pháo bông hoặc những cảm nghiệm phấn chấn. Bước đầu là bạn phải nhận thức được bạn muốn cải thiện và chúng ta có thể kiểm soát phần nào những điều kiện nhất thời, viễn vông.

Để được hạnh phúc thực sự chúng ta phải từ bỏ các uế nhiễm của tâm chẳng hạn như oán ghét, dính mắc, kiêu mạn, khát khao, tham muốn và tự mãn. Toàn bộ của sự huấn luyện tâm hoặc thiền tập là loại bỏ những điều này và thành tựu các phẩm chất tốt đẹp như lòng vị tha.

Bạn có thể tranh luận rằng một sự nóng giận hoặc một chút ít tiêu cực là cá tính của con người vậy điều đó không hẳn là xấu. Chúng ta thường có sự lẫn lộn giữa ánh sáng và bóng tối nhưng chúng ta chỉ dính mắc vào tư kiến đó và cho rằng nó là tối ưu. Bạn không cho rằng “Bản chất của con người là bệnh và chết vậy thì tại sao chúng ta phải đi bác sĩ” phải không?

Phương cách tâm hiểu biết thế giới là điều quan trọng trong cách định nghĩa phẩm chất của mỗi sát na xảy ra và chúng ta không để ý đến các điều kiện bên trong. Chúng ta phải học cách nhận ra rằng có những trạng thái tâm hoặc tình cảm có lợi cho sự phát triển và một số khác có tính cách hủy hoại. Tôi gọi đó là luyện thuốc giải độc.

Thông thường khi chúng ta vừa thoáng giận dữ tiếp theo sẽ là một giai đoạn chịu đựng thiêu đốt khi mà chúng ta không thể bắt đầu nhận ra các mặt tích cực của người mà chúng ta đang giận dữ. Liều thuốc giải độc trực tiếp là xem nó như nóng và lạnh. Có nghĩa là càng nhiều tư tưởng thiện hoặc vị tha bạn đem vào trong tâm, càng ít chỗ cho điều đối nghịch. Đây là luyện thuốc giải độc.

Do luôn ý thức rằng sự giận dữ không thể tự nuôi sống nó, nó sẽ ngưng được tiếp nhiên liệu và từ từ diệt đi. Nếu bạn trở nên thuần thục thì với sự tỉnh giác bạn có thể để cho những tình cảm buồn phiền đó qua đi mà không giữ chúng như một quả bom định giờ, hoặc cho chúng nổ tung từng lúc.

Dĩ nhiên tôi có tức tối. Nhưng thường là tôi nhanh chóng bật cười trước sự tức tối vì điều đó là dại dột.

Mọi người sẽ được hổ trợ qua việc hành thiền nửa giờ đồng hồ mỗi ngày. Hành thiền là một từ rất mơ hồ và có nhiều sáo ngữ chẳng hạn như làm rỗng không tâm trí và thư giãn hoặc tất cả những điều như thế. Nhưng hành thiền có ý nghĩa thực sự là tu tập hoặc làm quen với sự hiểu biết về cách vận hành của tâm. Các sự nghiên cứu cho thấy hành thiền kết hợp với sự nhận thức liệu pháp có thể giúp những người chịu đựng sự trầm cảm nghiêm trọng và làm giảm nguy cơ tái phát đến 40 phần trăm.

Để được hoàn toàn tự do bạn không thể cùng một lúc gánh vác trách nhiệm với những người lệ thuộc vào bạn. Làm sao tôi có thể hạnh phúc khi tôi là một người độc thân trong suốt 30 năm? Nếu tôi có một mái gia đình tôi sẽ gây ra nhiều đau khổ và điều này bất khả thi. Như thế không có nghĩa là bạn không có một tình bằng hữu tuyệt diệu và mối quan hệ với phân nửa của nhân loại. Một khía cạnh có thể không hiện hữu nhưng nhiều khía cạnh khác lại hiện hữu.

Cuộc sống không chỉ là ngồi nơi ban công nhìn xuống dãy Hy Mã Lạp sơn. Bạn có thể nói điều này quá dễ dàng cho tôi, tôi sống trên núi và không cần phải trùm những chiếc áo có mủ trên đường về nhà mỗi đêm. Nhưng điều này không dễ. Tôi đã bay 70 chuyến từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 6 tháng 11. Tôi không hề có một ngày nghỉ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2018(Xem: 4338)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 9066)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 7516)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
13/08/2018(Xem: 7357)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
23/05/2018(Xem: 4191)
Bài viết này để trả lời một vài câu hỏi nhận được gần đây. Nếu giúp được một số độc giả, xin hồi hướng công đức từ bài viết để Phật pháp trường tồn. Trường hợp các câu trả lời bất toàn hay sơ sót, người viết, với vốn học và vốn tu đều kém cỏi, xin lắng nghe quý tôn đức chỉ dạy thêm.
10/03/2018(Xem: 10215)
To give the briefest conclusion that I can think of to the question- 'Do you think that sectarian diversity affects the stability of Buddhism as a whole?', I would have to say, 'Yes' and 'No'. My intention here is not to give a definitive answer, but to give readers 'food for thought', to enable each of us to be responsible and maintain pure intentions, to think for ourselves and develop genuine wisdom and compassion. In the spirit of the Dharma, rather than dwelling on any possible problems, we should mainly focus on solutions to any such problems. With the hope of maintaining the integrity and purity of Buddhism in this world.
03/02/2018(Xem: 16670)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 15571)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
08/12/2017(Xem: 18752)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
19/11/2017(Xem: 8277)
Tình, Tưởng. Cả hai đều thuộc về phạm trù của Tâm con người, không có ở trong các loài súc sinh, mặc dù súc sinh có cái biết bằng Giác (giác hồn, sinh hồn) nhưng, không tinh khôn bằng loài người, do Phật tánh bị chìm sâu bởi thú tính cao vời. Chỉ có loài người, Phật tánh được hiện hữu ở ba cấp thượng, trung, hạ, cho nên loài người là linh vật, chúa tể của muôn loài có khả năng dời núi, lấp sông do bởi cái tâm có tánh giác tinh anh Phật, Bồ Tát, Thánh, Phàm. Nói khác hơn, con người chỉ có một tâm nhưng, nó tự chia ra hai phần : Chủ tể và phụ tể. Nói theo Duy Thức Học; là Tâm vương, Tâm sở. Vai trò của Tâm vương là chủ động tạo tác ra vô số lời nói, hành động thiện, ác. Vai trò Tâm sở là duy trì, bảo vệ những thành quả (sở hữu) mà cũng chính nó tức tâm vương đã sáng tạo ra. Nghĩa là cái Tâm con người, nó vừa tạo tác ra các nghiệp, lại vừa đóng vai
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]