Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phía sau văn bản của đời người

03/09/201307:40(Xem: 4050)
Phía sau văn bản của đời người


ducphatthichca

Phía sau văn bản đời người
 

 

Phật pháp là ngôi nhà chung của nhân loại. Nhưng những ai theo cuộc sống tạm bợ trần ai vẫn còn ngại ngùng bước vào. Một bài viết pha chút giáo lý nhẹ nhàng, người ta tạm gật đầu; thêm về thuyết nhân quả luân hồi người đọc hoài nghi; sâu thêm vào các tầng trời cõi Phật, về Tam giới liền bị chối. Cũng như một người bỗng đâu ai đó ngồi bên tỉ tê nghiệp quả phước báo, nghe chút thì vui vui gật gật, thêm nữa liền kêu đủ rồi.

Cuộc sống vật chất luôn tích trường nghiệp lực che lấp phần minh tuệ. Ấy nên Jesus mới phản tỉnh: Người giàu muốn vào nước Chúa cũng khó như con lạc đà chui qua lỗ kim. Nói vậy dễ bị quy kết con người đi thụt lùi, xã hội không phát triển. Về con người, hãy làm một phép so sánh mối quan hệ trong gia đình, mối quan hệ thầy trò và họ hàng làng xóm ngày xưa với đời nay thì rõ nhất ở mặt hiếu - lễ - kính. Về mặt xã hội, người ta cũng sẽ bảo Tây Tạng là vùng đất lạc hậu chậm tiến. Sự lạc hậu chậm tiến đó nay cả nền khoa học triết học thế giới đổ về nghiên cứu khám phá, học và hành.

Tâm lý học Phật giáo Duy thức đã giải phẫu tỉ mỉ con người ở Tâm lý học và cả Y học hiện đại cũng thán phục. Kiếp trước kiếp sau cũng là sự thật hiển nhiên theo cái nhìn khoa học. Thời điểm cuốn Tử Thư Tây Tạng ra đời từ thế kỷ thứ VIII, nó “giấu mặt” suốt 6 trăm năm để người đời đủ thời gian tỉnh táo tiếp nhận. Nhưng tác giả cũng không ngờ là cho đến nay, khi được dịch ra nhiều thứ tiếng nó vẫn nằm bụi bặm ở các quầy sách lớn trên thế giới. Người ta hoài nghi, e dè kiêng kị, sợ chạm vào nó kiểu như chạm vào xác chết. Mà đâu ai tránh được cái chết. Ngay cả tỉ phú đủ tiền mua một thành phố, vẫn chết rất trẻ. Nếu con người điều khiển được quy luật nhân quả, hẳn nhiên các tỉ phú là người sống thọ nhất. Khi cái chết chiếm lấy thân, giống như ta (không hay) được trang bị thở bình ô xi rồi nước dâng lên quá đầu… ta mới à lên thì ra sự sống vẫn tiếp diễn. Sự tu tập sẽ có cơ may sau khi người ấy trải vòng luân hồi hắc ám trong các nẻo. Phủ nhận nhân quả luân hồi là phủ nhận khoa học hiện đại; phủ nhận hành trì tâm linh, dẫu là thiên tài chết đi “thiên tai” sẽ phủ trắng những gì ta có. Trôi lăn khổ não qua nhiều kiếp, phải ăn mày từng câu kinh mong được siêu thăng. Người ta vẫn thường xây lăng mộ cho người thân và xem đó là ơn đức. Thay vì xây lăng mộ, nên dùng tiền đó giúp kẻ bần khó, phóng sanh hành thiện may ra người thân bên kia mới như cánh diều được cắt dây. Còn không họ chỉ chia nghiệp dữ từ việc phung phí tiền của vào lăng mộ cho mình. Nhiều nhà ngoại cảm ra nghĩa trang thấy vô vàn người đứng ngồi san sát. Hầu hết còn bị nghiệp trì níu. Những vong hồn ấy như vô vàn quả bóng. Việc cứu chuộc không đơn giản dùng kim chích vào cho nổ tan. Họ chỉ biết mình đang chịu nghiệp (đứng đó), không biết bao giờ mới được độ nếu thân nhân không ngày đêm tích phước hồi hướng. Người ta lại sẽ thốt lên, xưa xa đến nay ông bà tổ tiên nội ngoại bao người đã sống và chết đi có ảnh hưởng gì đến sự sốngngười dương? Nhưng, chúng ta có biết và có tìm hiểu những người đã mất họ giờ ở đâu, là ai? Hẳn ta không dám biết? Phật pháp với lòng tư bi vô hạn đã giấu giùm chúng ta.

Người Ai Cập linh cảm được “điều gì đó” sau cuộc đời nên xem cõi này tạm bợ, mới xây Kim tự tháp; dĩ nhiên đây lại là một bước sai lầm, bởi để chuẩn bị cho kiếp sau chỉ xây cho mình một nấm mộ lớn thì quá đơn giản. Dân gian có câu “sống gửi thác về”. Thần Chết là một mãnh hổ từ nhỏ sống trong rừng sâu địa thẳm, sa bẫy. Người ta do vật chất che mờ nên không biết Thần ấy đã được thuần dưỡng, nên chẳng bao giờ dám thân cận vuốt ve. Người ta nhìn Thần Chết với ánh mắt lạnh lùng, để rồi Thần Chết đối với người đó khô kiệt tình người, ác tâm dần dần khôi phục.

Sống trong vòng tay của Đạo, con người sẽ an bình tự tại. Chấp dùng vật chất làm thần hộ mạng chẳng khác ta tự tù đày cuộc sống của mình. Từ cái mũ bảo hiểm nhỏ, người ta kiếm cho bằng được tiền tậu cái “mũ bảo hiểm lớn”, tậu danh vọng rồi sanh tâm kiêu ngạo. Con người có đại ngã thì trên đầu họ không phải bầu trời mà là cái vung! Ai cũng có quyền hưởng thụ. Có tiền, ai cũng có quyền ăn uống xả láng nếu trên hành tinh xanh không còn vô vàn người chết đói; ai cũng có quyền xả nước sạch ào ào, tắm bồn hàng ngày nếu trên trái đất này như ở vùng châu Phi không còn người dật dờ bước hàng chục km để được uống một hớp nước; ai cũng có quyền thắp ánh sáng suốt đêm (mà chẳng để làm gì) và phung phí các thiết bị xài điện vô ích khác nếu như một phần của trái đất không chìm trong bóng tối. Nếu như những vùng nghèo đói thiếu điện thiếu lương thực thiếu nước, thiếu đủ thứ ấy được dời đến gần thành phố chúng ta… Không cần ống nhòm hay kính viễn vọng; nhìn bằng con mắt của đạo, tất thảy nỗi đau đều bên cạnh chúng ta.

Sự tích nghiệp dường như vô tình và nằm ngoài sự kiểm soát sẽ khiến con người cõng đá bước trong đầm lầy ở bên kia núi. Hay nghiệp ấy sẽ là trùng trùng đất đá tấp lên thân xác... Ví cái chết như thay áo, chưa đủ. Ta tích nghiệp, kiểu như một con rắn oằn oại lột da. Quá nặng nghiệp thì gần như chính ta lột da mình. Cái đau rên xiết ấy sẽ thấm dài vô tận. Người đời vẫn dạy con cháu sống cho xong kiếp này hẵng tính. Có thể ví sự sống như một viên kim cương luôn bất ly thân, và rồi tên trộm (thần chết) sẽ nhón đi bất cứ lúc nào bạn lơ đễnh. Nếu có ông thầy bói cực giỏi xem chính xác số mạng, liệu ai có dám đối diện với thông tin kinh hoàng đó. Hay, ai cũng vô tình “muốn” cái chết đến bất ngờ.

Cái chết dẫu đến bất ngờ chăng nữa, thì nó cũng không quan trọng nhiều nếu phía sau đó là số 0. Thử tưởng cái chết đến với ta... hay ngược lại cái chết đến với người thân; ta tiễn họ lên con tàu về vô xứ. Họ không có gì mang theo, trong lúc ta chẳng có một đồng (phước đức) dúi vào tay họ; ứa nước mắt trước cảnh họ lầm lụi trong mù mịt, vừa lê bước vừa xin ăn, rồi bao tai ương chướng ngại như thác lũ... Thầy Drakpa Gyaltsen có nói: “Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để thình lình bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị”. Nếu biết tin sau sự sống này là một sự sống khác vô tận với biết bao trầm luân, với biết bao kiếp nữa phải kinh qua hẳn con người đã không tranh giành giẫm đạp nhau chạy theo xa hoa. Nếu an tu tự tại, một bữa ăn vài món rau cỏ, người ta vẫn vui so với bữa đại tiệc mà kẻ dự phần vẫn thấy món này nấu chưa đạt, món kia còn thiếu một vài hương vị... Nhiều người băn khoăn sao nhà sư phải tự rước khổ, đâu biết họ quá ư hoan hỉ. Vật chất không thể là thước đo an lạc. Thật nghịch lý khi cha mẹ tích trữ tiền bạc đến cả đời con sống vương giả thỏa thuê. Những đứa trẻ đó sẽ chỉ chú tâm vào việc tiêu tiền và tích nghiệp. Kho tàng mà chúng ta để lại cho con cháu không nên vàng bạc châu báu mà nên là kho tàng tâm. Từ nhỏ một đứa trẻ đã bị gánh nghiệp. Với một gia đình có mức sống khá, trong dăm năm đầu chúng đã không thiếu thứ gì, nhất là khoản ăn mặc. Từ nhỏ chúng không nếm khổ. Nhiều cha mẹ còn ép con dùng thịt và hải sản thay cơm. Chúng sẽ chịu hai loại nghiệp: Về tâm linh là nghiệp sát do ăn mặn; về khoa học chúng sẽ mang bệnh do thừa chất. Bệnh vốntừ nghiệp tích tụ trong tâm. Tâm là ngọn đèn của thân. Đèn sáng thì thân vô nhiễm. Rồi sự chiều chuộng, vun vén vị kỷ... Cha mẹ cũng hại con? Đúng, bởi họ không biết mình đang bơi ngược dòng minh triết.

Phật pháp không phải là miếng mồi giơ ra để con người nổi tham chụp lấy. Trong kinh Phật lý giải tiến trình khám phá chân lý phải theo nguyên lý Tín - Giải - Hành - Chứng. Người phàm chúng ta bởi luôn bị điều động bởi Tham - Sân - Si - Mạn nên nếu không thực hành tâm pháp, cao lắm chỉ đạt mức Tín và Giải, tức “thế trí biện thông” - một trong tám nạn ngăn chặn sự tiến hóa vận mạng. Đại diện của khoa học đến như nhà bác học Albert Einstein chứng nghiệm thành tựu trọn đời đã phát biểu: "Chỉ tri thức và kỹ năng thôi không thể dẫn dắt loài người đến một cuộc sống hạnh phúc và có phẩm giá được. Những người khai sinh ra các chuẩn mực và giá trị đạo đức cao quý luôn xứng đáng được nhân loại đề cao hơn những người khám phá ra chân lý khác quan…. Những gì nhân loại chịu ơn những nhân cách như Đức Phật, Moses và Jesu đối với tôi còn cao hơn tất cả thành tựu của những bộ óc khám phá và phát minh". Tin khoa học, nên tin điều khoa học đã chứng minh trước nền văn minh chúng ta từng có những nền văn minh tột đỉnh khác đã hủy diệt. Khoa học cho biết loài người tiến hóa từ khỉ là phi lý, song trong đầu ta lúc nào cũng mặc con khỉ nhảy múa trêu đùa!

Con người hiện hữu trên trái đất do duyên nghiệp từ các kiếp trước. Đức còn, nghiệp chưa sờ đến. Đức vơi, là lúc nghiệp đánh hơi, tâm rối, tướng mạo bắt đầu mất dần sắc khí. Nhiều người tiền bạc phủ phê; cũng như các dòng tộc sống ác vẫn còn chút bình an là bởi phước họ quá nhiều, một đời xài chưa hết. Dấn thêm vào đời sau hoặc sau nữa họ sẽ lâm nguy và có khi nghìn vạn kiếp chưa thấy mặt trời. Tất cả những điều này nói ra sẽ là viễn vông đối với những ai không tin Đức Phật là bậc đại trí huệ. Người Tây Tạng có nghi lễ: vẽ bức tranh tuyệt mỹ bằng một dạng màu như cát. Mandala. Họ vẽ trong chánh niệm, trong cõi thiền tuyệt tĩnh mất hàng tuần mới xong. Đỉnh cao nghệ thuật. Mê hồn. Song vừa lúc bức họa hoàn thành liền bị xóa đi. Đời người cũng như vậy. Bòn rút thời gian tô vẽ trau chuốt, đẹp như bức tranh kia cũng trong một giây thôi. Có thông điệp nào thâm thúy đến vậy. Tử thư Tây Tạng, xem là chìa khóa mở mở một góc nhìn về kiếp khác, bắc cầu đến ánh đạo vàng. Để nhận chân sự hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu như lời Phật. Để biết mình sẽ phải đi về đâu. Để biết đạo Phật đã thấm vào căn cốt của người Tây Tạng từ hàng chục thế kỷ trước nên ở họ luôn toát ta đức khiêm cung và hương bát nhã.

Tạng thư sống chết của Sogyal Rinpoche viết:

“Nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: “Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?” Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...”.

“Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong lúc ta đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới. Ta sẽ không thể sống cuộc đời mình một cách viên mãn, ta sẽ cứ bị giam hãm trong cái phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản của cuộc hành trình tiến đến giác ngộ”.

Biết về sự sống sau cái chết, chắc chắn ai cũng lo chuẩn bị cái chết. Tức hành trang về cõi chết luôn sẵn trong tâm. Nhiều người suốt đời chuẩn bị cho cái chết vẫn chưa đủ tự tin để chết, huống hồ chỉ lo đến tờ di chúc và những gì bày biện dưới cái rạp tang. Trong ngàn vạn pháp môn làm phương tiện cho người thoát bể khổ, Tịnh độ tông chủ trương niệm "A Di Đà Phật", niệm đến nhất tâm khi chết sẽ từ cõi Cực Khổ bay về Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Nhưng ai đã niệm Phật mới hiểu không dưng chưa hề gội rửa bằng thiện nghiệp lại có thể định tâm. Tương đương với việc cuộc sống của họ phải như nhiên không hề nhúng tay vào cấu uế, và trong đầu hễ không phải lo việc thế gian thì luôn luôn "A Đi Đà Phật", lúc ngủ cũng như thức đều sống với câu hồng danh khai trí tuệ và huệ mạng này. Trong tâm họ luôn có "A Di Đà Phật", và cái chết dẫu đột ngột viếng thăm thì xem như nắm được vạt áo của Đức Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí tiếp dẫn về cõi Tịnh. Chuẩn bị cho cái chết, nó đâu ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ta. Nó chỉ “cướp đi” sự ích kỉ hẹp hòi trong mỗi ta thôi. Phú quý sinh lễ nghĩa. Chúng ta quá sa vào lễ nghĩa. Lễ dành cho cái chết thật ra chỉ quan trọng khoảng một giờ trước lúc người ta tắt thở và sau đó khoảng 9 tiếng yên tĩnh ngoại trừ lời khai thị giúp họ bước qua cánh cửa màu đỏ. Sau đó cái xác... vô dụng. Thế nên ở Tây Tạng mới có tục Thiên táng (để xác trên núi cao "cúng dường" cho lũ kền kền có được bữa no).

 Hiểu Đạo Phật không khó. Khó là ta chỉ hiểu mà không chịu hành; không mang thai nghi tình nên chẳng thể nào khai phóng bản thể. Học rồi hành rồi soi trở lại những điều mình học, sẽ cảm được niềm vui khôn tả. Ta hiểu thiền là meditation (suy tư mặc tưởng...), lúc hành thiền sẽ nhận ra ngôn ngữ không thể diễn đạt linh nghĩa Thiền và diệu lý của Tịnh. Lời Phật vang đến ngàn sau: "Cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi vòng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát. 49 năm thuyết pháp, trước lúc nhập diệt Phật Thích Ca lại bảo “Ta chưa nói điều gì”. Là sao? Bởi: (1) Ngài bảo ta chỉ hoàn toàn thuật lại lời dạy cổ Phật (như Khổng Tử nhận mình nói lại lời cổ thánh không thêm bớt không sáng tạo - thuật nhi bất tác); (2) Lời Phật như thuốc trị bệnh; Ngài sợ đời sau chấp văn tự là chân lý - như uống nhầm thuốc, nên “ngón tay chỉ trăng” phải rụng; (3) Theo lý Bát nhã, mọi lời nói của Phật đều tuôn chảy từ Tự Tánh, nên nói mà không nói, ấy là nghĩa Vô Trụ; ai chấp lời nói thành ra Có Trụ mất rồi; (4) Một lời trong kinh điển gồm vô lượng nghĩa. Đời sau dựa trên mặt ngữ nghĩa diễn dịch theo ý mình thì đã phần nào sai biệt (Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan/ Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết); (5) Phật muốn mỗi người “hãy tự thắp đuốc mà đi, đừng dựa vào ai khác; hãy y vào chánh pháp” soi đường.

Nếu ta không tự đập bức tường ngăn giữa hai cõi sống - chết; chúng ta không tin nhận lời Phật dạy, ban phát tâm từ đến tha nhân gắng sống một đời phạm hạnh thì sẽ không ai cứu được. Dẫu Phật ngậm tiếng hàm oan bỏ mặc muôn loài.

N.N
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2015(Xem: 9523)
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu tự hỏi tại sao bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung, Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó.
24/05/2015(Xem: 11621)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
20/03/2015(Xem: 7568)
Đạo Phật là đạo từ bi vì thế là người con Phật, chúng ta phải tu tâm từ bi, trưởng dưỡng tâm từ bi trong cuộc sống mỗi ngày vì tâm từ là cội nguồn của mọi thiện nghiệp, là Phật tánh của chúng sanh. Điều này được Đức Phật thuyết trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai [1, tr.520].
25/02/2015(Xem: 9244)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 14537)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 6184)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5704)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 5012)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9714)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5614)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]