Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật

25/07/201308:50(Xem: 6794)
Niệm Phật

minh_hoa_quang_duc (281)

Niệm Phật

Thích Nữ Phổ Hạnh


Thế gian ly sanh diệt

Thí như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm

(Kinh Lăng Già)

Dịch nghĩa:

Thế gian lìa sanh diệt

Như hoa đốm hư không

Trí tuệ không có, không

Hưng khởi tâm Đại Bi.

Cứu cánh trí tuệ Phật Giáo là chứng đắc Tánh Không của vạn pháp. Trong kinh điển, Tánh Không là pháp giới Tánh, cũng chính là Phật Tánh. Phật tánh không ngằn mé, không hạn lượng, không đối đãi giữa sanh và tử, giữa có và không... Phật tánh kết tập hưng khởi từ sức trí tuệ vô lượng và tâm đại bi vô biên. Đức Phật thường dạy, Bồ Tát đạo nương Phật tánh làm con đường, nương trí huệ Bát Nhã làm thuyền độ sanh. Nhờ nương sức từ bi của chư Phật, Bồ Tát quán sát thế gian như hư huyễn, không thật có sinh diệt, như hoa đốm giữa hư không. Bồ Tát tinh tấn phổ độ chúng sanh không mệt mỏi, không nhàm lìa, nhưng không thấy mình vĩ đại, không thấy chúng sanh đáng tội nghiệp, không thấy mình cao cả, đáng làm chỗ cho chúng sanh cúng dường… Vì dù có chấp, có thấy đến thế nào chăng nữa, thì điểm cuối cùng trên đạo lộ giải thoát vẫn phải là “tâm, Phật, chúng sanh - ba thứ ấy đều không sai biệt”.

Như vậy, từ cảnh giới của phàm phu cho đến cảnh giới của Bồ Tát, không có cảnh giới nào muốn đạt đến cứu cánh giải thoát mà không nương nhờ sức Từ Bi, Trí Tuệ vô lượng, vô biên của Phật. Nương nhờ và quy y nghĩa là tùy chỗ, tùy duyên… nhưng không mất phương hướng, không quên tưởng nhớ đến Phật, không quên niệm Phật. Khi tâm thường chân thật niệm Phật, lâu dần sẽ sanh chuyên tâm. Cấp độ chuyên tâm cao hơn sẽ dẫn đến Nhất Tâm. Nhất Tâm là cảnh giới của Định. Định lực sẽ biến thành nguồn năng lượng mạnh mẽ, tùy vào tầng thứ của Định mà phát sanh trí tuệ đưa đến giải thoát. Khi chứng đắc trí tuệ cứu cánh, tất nhiên cảnh giới của Phật Tánh sẽ hiển bày. An trụ Phật tánh tức an trụ Tánh Không của vạn pháp. Từ duyên khởi tánh Không, phát tâm Đại Bi phổ độ chúng sanh.

Như vậy, từ phàm phu cho đến cảnh Phật, khi nào còn chưa đắc độ thì còn cần nương tựa Phật. Tuy vậy, con đường sẽ gần hay xa tùy vào cấp độ “chân thật Niệm Phật” của mỗi chúng sanh.

Trong Kinh điển, đức Phật thường ca ngợi đức hạnh “Chân Thật”. Phải chân thật niệm Phật, phải chân thật tu hành. Vì chân thật thì việc tu mới có kết quả. Không chân thật thì dù có làm gì chăng nữa cũng chỉ tốn kém thời giờ, không lợi ích được gì. Cứ thế một đời trôi qua trong quên lãng, ngàn đời trôi qua trong nhấp nháy, càng xa Chánh pháp thì cơ hội gặp đạo giải thoát càng ít đi. Thường nghe ví dụ, khi thật sự biết rắn là loài vật đáng sợ, là loài vật nguy hiểm, thì khi gặp rắn, không cần phải đợi giải thích, năn nỉ hay răn đe, lập tức không ai dám chộp lấy con rắn, mà điều đầu tiên khởi lên là phải sợ hãi và tìm cách lánh xa. Giả sử gặp lúc giữa đêm, đang cơn tối tăm khiến lầm lẫn giữa rắn và sợi dây, dù chộp lầm chăng nữa nhưng khi chạm đến cái lạnh lạnh ghê ghê của da rắn, liền lập tức buông tay không một giây tính toán chần chừ. Đó chính là chân thật sợ rắn. Còn nếu không phản ứng như vậy, thì một là rơi vào dạng “điếc không sợ súng”, tức không hề biết rắn nguy hiểm lợi hại như thế nào; hai là dạng “chuyên viên bắt rắn” mới không sợ rắn cắn mà thôi. Hai dạng đó dầu luôn miệng nói là “sợ rắn” theo xu hướng của mọi người, nhưng thật tâm không sợ. Đó là nghĩa không chân thật trong trường hợp này.

Niệm Phật hay tu bất cứ pháp môn nào cũng vậy, phải “chân thật tu hành”. Rất có nhiều trường hợp vì hoàn cảnh, vì nhân duyên nào đó… bắt buộc phải biểu lộ hành động tu hành, nhưng thật tâm thì khác. Thay vì nghĩ đến Phật, thì lại nghĩ đến những chuyện không phải Phật. Quý Thầy giảng Pháp thường nhắc: Nếu thật sự chúng ta hiểu Vô Thường thì chúng ta đã không như bây giờ. Nếu thật sự chúng ta sợ Luân Hồi, thì chúng ta đã buông hết phiền não tham, sân, si… từ lâu rồi.Và quả thật là vậy, vì từ vô lượng kiếp mỗi chúng sanh đã kinh qua không biết bao nhiêu cảnh giới trong sáu nẻo luân hồi. Chúng sanh đã từng làm quốc vương, tướng tá, dân đen… cho đến làm súc sanh, thọ báo địa ngục, ngạ quỹ… Dạng tâm thức nào cũng đã kinh nghiệm qua, trong đó danh lợi, quyền uy tột đỉnh của thế gian, giàu sang phú quí… cho đến hèn hạ, bần cùng… tất cả cũng đã có. Chỉ có kinh nghiệm của Chứng Đạo hay kinh nghiệm “Niệm Phật Tam Muội” là chưa từng có mà thôi. Chỉ nghĩ đến 5 dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, chắc chắn chúng sanh nào cũng từng trãi qua trong quá khứ, nhưng giờ này còn lại gì, ngoài tâm thức ưu phiền của kiếp nhân sinh? Thường niệm quán như vậy, mấu chốt vấn đề đã được bật ra, từ đó phát sinh động lực đem tất cả buông xuống. Vì vậy, Tổ sư nào cũng nhắc nhở, kiếp sống này là cơ hội cuối cùng để quay đầu lại, là chuyến tàu cuối ngày đưa người về quê hương. Nếu lỡ tuột mất trôi qua, thì thật không còn gì đáng tiếc hơn nữa.

Thật cảm niệm công ơn Đức Phật không gì diễn tả hết được! Tưởng tượng nếu thế gian không có phút Đản Sanh của Thái tử Tất Đạt Đa, giờ này không chỉ nhân loại mờ mờ mịt mịt, mà địa ngục dầu sôi, ngạ quỹ đói khổ, súc sanh tối tăm… còn tăng dân số không đếm kể cho hết được.

Thế gian mãi mãi kính lạy buổi bình minh chấn động ba ngàn thế giới, ngày Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề năm xưa. Ngày ấy đến nay đã hơn 25 thế kỷ, nhưng tất cả trời, người vẫn còn được nhuần ân. Tâm thức chúng sanh không chỉ hiểu được sự hiện hữu của thế giới loài người, thế giới loài vật, mà còn biết hướng đến thế giới của phi nhân, của chư Thiên hay địa ngục, ngạ quỹ, a tu la… Huyền diệu hơn, chúng sanh còn biết có thế giới Phật, thế giới của tuyệt đối thanh tịnh, thế giới của liên hoa hóa sanh. Nơi thế giới ấy, không có bóng dáng của sanh tử luân hồi, không còn nhân ái dục để chiêu cảm nghiệp báo thai sanh. May mắn hơn, Đức Phật đã vạch rõ con đường đi đến thế giới đó. Con đường rất dễ hiểu, chỉ theo một công thức “Tất cả do Tâm tạo”.

Tâm như một kho tàng chứa tất cả những chủng tử gieo trồng vào đó. Chính những chủng tử đó sẽ hướng dẫn chúng sanh tái sanh. Cảnh giới đi tái sanh tùy theo chủng tử nào gần nhất, mạnh nhất lúc chấm dứt thân giả tạm này, nghĩa là khi Chết. Tất cả chúng sanh còn trong vòng nghiệp báo, khi thần thức lìa khỏi thân xác, đa phần đều phải rơi vào cảnh mờ mịt, hoảng loạn, bơ vơ… không khác tâm trạng trẻ con sợ hãi, hoang mang khi thất lạc cha mẹ. Trong cơn hoảng sợ thần thức có khuynh hướng tìm cầu cảnh nào đó để nương tựa. Cảnh đó sẽ là những tâm trạng quen thuộc, thường xuyên xảy ra khi còn sống. Những tâm trạng quen thuộc tạo thành chủng tử khắc ghi vào Tâm thức. Chính những chủng tử đó hóa hiện thành cảnh giới làm nơi nương tựa cho thần thức. Điều đó giải thích trong cuộc sống thường ngày thương yêu hoặc say mê cái gì quá, sẽ tái sanh trở lại gần gũi với cái thương, cái mê đó. Hoặc giả thù hận hay căm ghét nhân vật nào đó, thần thức cũng lấy tâm đó để nương tựa, rồi trở lại báo thù hay tiếp tục cuộc vòng quanh của thương yêu, oán ghét…

Ví dụ khác, một người thường tạo nghiệp sát sanh, khi mạng chung thần thức sẽ thấy lại cảnh chết chóc kêu la của loài vật; và trong hiện cảnh như vậy, nếu chủng tử thiện lành không đủ sức làm mờ đi, thì thần thức sẽ bị nghiệp lực dẫn đi theo chiều hướng tiếng kêu la của loài vật. Và đó là lúc đi vào cảnh giới theo chủng tử nghiệp lực đã tạo; cho đến khi nhân quả nhẹ dần, thì nghiệp lực bấy giờ sẽ được thay thế bởi những nghiệp khác để đi vào cảnh giới khác hơn. Nhưng nghiệp lực là gì ? Đó là những hành động tạo tác hóa thành chủng tử thiện ác vậy. Thế thì được đi lên hay đi xuống đều tùy vào sức mạnh của những chủng tử còn lại trong tâm thức chúng sanh đó.

Tâm cảnh người niệm Phật thường ngày huân tập câu niệm Phật. Cảnh giới của người chân thật niệm Phật nhận thức các pháp đều duyên sanh, không tự tướng. Nhận thức được vạn vật vô thường biến đổi không ngừng. Từ đó không sanh tham đắm và chấp trước. Các việc thường ngày xảy ra chỉ do nhân duyên, chúng đến rồi chúng sẽ đi, như “hoa đốm giữa hư không”.

Quan trọng hơn, người niệm Phật muốn nhập vào cảnh giới Phật, phải phát Bồ Đề Tâm tức phát tâm sớm chứng đạo Vô Thượng để cứu độ hết thảy chúng sanh không phân biệt. Đó cũng là thấy rõ nhân duyên của các pháp mà phát Đại Bi Tâm trong tinh thần Bồ Tát. Cảnh giới của người niệm Phật như thế thường sanh hỷ lạc và thanh tịnh. Do thấy rõ lỗi lầm của sinh tử, nên chấm dứt khát ái, không còn tái sanh trong ba cõi. Sau khi mạng chung, đời sống kế tiếp không thọ thân trong bào thai mà hóa sanh trong hoa sen.

Do luôn sống với tâm thanh tịnh, tâm thức lúc đó chứa đầy chủng tử niệm Phật, nên khi xả báo thân, tất nhiên thân tái sanh phải phù hợp với cảnh giới ấy: Cảnh giới Phật. Huống hồ, ngay giờ phút đó còn được Chư Phật, chư Bồ Tát cuỡi mây Đại Nguyện, lướt gió Đại Bi đến tiếp dẫn vãng sanh. Cuộc hành trình đau khổ của kiếp luân hồi đến đây mới mong chấm dứt !

Và từ đây, tâm thức người niệm Phật sẽ chính thức hòa vào dòng pháp của chư Phật, chư Bồ Tát. Sẽ chứng đắc cảnh giới của Pháp Tánh, của Duyên khởi Tánh Không. Sẽ chấm dứt tái sinh, không sinh không diệt. Không còn đối đãi của thế gian, không chấp Có cũng không chấp Không. Nhưng vẫn tiếp tục hạnh nguyện Bồ Đề, trở lại Ta Bà hóa độ chúng sanh. Đó là cảnh giới của chư Bồ Tát trong Kinh Lăng Già “Trí bất đắc hữu vô, nhi hưng Đại Bi Tâm”mà Đức Phật thường nhắc nhở vậy.

Kính nguyện tất cả chúng sanh đều niệm Phật, một mai cùng vãng sanh cảnh giới Phật và cùng làm bạn hữu nương thuyền Từ phổ độ chúng sanh.

Thích Nữ Phổ Hạnh kính bút


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2012(Xem: 3527)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
11/11/2012(Xem: 3975)
Không thật, giả, ảo ảnh, như huyễn, như mộng… là một chủ đề quan trọng hàng đầu của Phật giáo, đó cũng là chủ đề quan trọng hàng đầu của con người trước cuộc đời của chính mình và thế giới mình sống. Trước hết chúng ta nhìn lại sự giới hạn của các giác quan. Ở đây chúng ta chỉ nói về những màu sắc của sự vật mà chúng ta đang thấy.
10/11/2012(Xem: 3526)
Những nỗi nghiệt ngã của cuộc đời đều do chấp thủ cực đoan mà ra. Thủ chấp là mặt trái của sự khổ đau. Nó được hình thành từ sự cố chấp, thành kiến sâu nặng nơi tham ái, sân hận, si mê ở mặt cạn cợt thô thiển và ngay cả sự cố chấp vào những lý tưởng tôn thờ như sắc tộc, tôn giáo và chủ nghĩa cực đoan ở mặt tế nhị sâu xa.
08/11/2012(Xem: 17644)
Giáo phái Thanh Hải cũng có những hình thức có vẻ tương tự, mà mới nghe nói qua, ai cũng tưởng giống đạo Phật hay một đạo nào khác...
07/11/2012(Xem: 4027)
Không thật, giả, ảo ảnh, như huyễn, như mộng… làmột chủ đề quan trọng hàng đầu của Phật giáo, đó cũng là chủ đề quan trọng hàngđầu của con người trước cuộc đời của chính mình và thế giới mình sống. Trước hết chúng ta nhìn lại sự giới hạn của các giácquan. Ở đây chúng ta chỉ nói về những màu sắc của sự vật mà chúng ta đang thấy.
05/11/2012(Xem: 3256)
Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai? Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.
01/11/2012(Xem: 14122)
Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật"! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!
31/10/2012(Xem: 6027)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
25/10/2012(Xem: 5792)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật.
23/10/2012(Xem: 6751)
Những bài kệ trong tập này đã được thực tập tại Làng Hồng trong mùa Hè năm 1984. Thiếu nhi cũng như người lớn đã chép tay các bài kệ này để học thuộc lòng. Ta chỉ thực tập được các bài kệ sau khi đã thuộc lòng chúng, khi nâng chén trà lên chẳng hạn nếu ta có ý thức thì tự khắc bài kệ sau đây đến với ta một cách tự nhiên:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]