Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Đường lên nóc nhà thế giới

23/11/201204:48(Xem: 5228)
02. Đường lên nóc nhà thế giới

Đường lên Tây Tạng

Nguyễn Tập

Kỳ 2:
Đường lên nóc nhà thế giới

TT - Chuẩn bị mua vé tàu lửa thì được biết vé máy bay đang có đợt giảm giá đến 50%. Đường từ Tây An đi Tây Ninh (thủ phủ tỉnh Thanh Hải, cửa ngõ vào Lhasa, Tây Tạng) hơn 1.000km nhưng chẳng có gì hấp dẫn, tiền xe lửa, tiêu xài cũng suýt soát nên chúng tôi chớp ngay cơ hội hiếm có này.

Thành phố “xám”

Chỉ sau hơn 30 phút bay từ Tây An đến Tây Ninh, từ thành phố đô hội, nhà xe đông đúc chúng tôi như lạc vào một thế giới hoàn toàn khác.

Từ trên máy bay nhìn xuống, cả dãy cao nguyên Thanh Tạng đồi núi chập chùng, cỏ cây khô cằn một màu xám ngoét. Không màu xanh. Không sự sống. Lần đầu tiên trong chuyến đi tôi có cảm giác sợ hãi mơ hồ.

Vừa bước ra khỏi máy bay tôi lại bị dội ngược bởi nhiệt độ: âm 50C (ở Tây An nhiệt độ chỉ khoảng 100C). Trời lạnh ngắt, tím tái mặt mũi, vậy mà phải chạy bộ từ máy bay vào nhà ga.

Nhà ga sân bay như một cái nhà kho với tổng diện tích khoảng 800 - 900m2, xây tường, lợp tôn. Nhìn xung quanh, tôi bỗng nhớ đến sân bay Liên Khương (Đà Lạt) rồi thấy “tự hào”. Dọc hai bên đường từ sân bay vào thành phố, nhà cửa cũng chẳng “vui” gì hơn.

Thấp thoáng qua hàng cây hai bên đường trụi lá, trơ xương là những căn nhà nhỏ bằng đất nằm lọt thỏm giữa một “biển” đồi núi xám xịt. Lạnh lẽo. Cô nhân viên khách sạn loay hoay cầm cuốn hộ chiếu lật ngược lật xuôi. Hình như cô chưa bao giờ làm thủ tục đón khách nước ngoài. Một phòng hai giường, có máy sưởi với giá 80 tệ/ngày (160.000 VND) cũng là cái giá dễ dàng chấp nhận.

Thủ phủ Tây Ninh buổi tối chẳng có gì. Lội bộ dọc suốt những con đường quanh nhà ga chúng tôi chỉ thấy phần nhiều là người ăn xin. Những gương mặt khắc khổ ngồi co ro bên vệ đường trong cái lạnh cắt da chờ đợi chút lòng thương hại. Không một lời nói. Không một tiếng cười. Mới 21g mà đường sá vắng hoe. Không một tụ điểm vui chơi giải trí. Trên đường chỉ có vài bóng người lầm lũi đạp xe, trên lề chỉ vài bóng người bước vội...

Trước nhà ga, một dãy những tấm bạt được căng lên, bên trong là một cái chảo to trên cái bếp nghi ngút khói đựng từng tảng thịt lớn cắt từ đầu bò yak: quán ăn của người Hồi đấy. Tôi vào một quán, kêu một tô thịt lớn đầy ụ với giá chỉ 2 tệ. Hơi khó ăn vì mùi khá đặc trưng.

Anh chủ quán người Hồi đội cái nón trắng, hai gò má bầm tím vì lạnh vì nắng, râu quai nón rậm đen nhưng cặp mắt rất hiền nhìn chúng tôi có vẻ ngạc nhiên. Anh chỉ nói được chút ít tiếng phổ thông, khi biết chúng tôi từ VN đến anh tròn mắt ngạc nhiên: “Sao lại du lịch ở những nơi xa xôi, hẻo lánh thế này. Lần đầu tiên tôi gặp người VN ở đây đấy”.

Do là cửa ngõ quan trọng vào Tây Tạng - nơi có con đường sắt duy nhất, có đường quốc lộ khá tốt nối từ Cách Nhĩ Mộc đến Lhasa (sẽ hoàn thành vào năm 2007) nên tại tỉnh Thanh Hải (có diện tích 720.000 km2 - gấp đôi diện tích VN mà dân số chỉ có 4,9 triệu người) việc xây dựng hạ tầng được đẩy mạnh cũng là điều dễ hiểu. Đường lớn, vỉa hè rộng, có làn riêng cho người đi bộ, xe đạp…

duonglentaytang-03
Cô gái Tây Tạng chăn bò yak trên cao nguyên Thanh Tạng

Hồ trên núi

Nhắc đến Tây Tạng mọi người đều nghĩ đến khu tự trị ngày nay. Nhưng ít người biết rằng cách đây không lâu, cả cao nguyên Thanh Hải cũng thuộc về Tây Tạng.

Ngoài việc không hề có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, đây còn là nơi ngự trị của các đời ban thiền lạt ma.

Trong tâm khảm người Tây Tạng, cao nguyên Thanh Hải bao giờ cũng là một phần linh thiêng không thể tách rời…

Chuyến xe buýt bị hủy vì đầu mùa đông quá ít khách. Chúng tôi đành phải bao chiếc xe giá 300 tệ đến hồ Thanh Hải - một trong những hồ nước mặn cao nhất thế giới. Đi được hơn nửa đường, chúng tôi bỗng gặp cơn mưa tuyết. Ngồi trong xe đóng kín mít cửa mà còn nghe gió rít liên tục.

Tuyết bay mù trời, trắng xóa. Ngoài kia, thấp thoáng trong cơn mưa tuyết, một cô gái Tây Tạng với trang phục truyền thống đang ngồi bất động bên vệ đường, với một sự nhẫn nại truyền đời để chăn đàn bò yak đang bình thản chậm rãi nhai mớ cỏ khô hiếm hoi còn sót lại trên thảo nguyên khô cằn. “A! Tây Tạng đây rồi!” - anh Kim Sơn, người cùng đi với tôi, bỗng reo lên.

Tôi thắc mắc tự hỏi: Chúng tôi đã gặp những người Tây Tạng tại thủ phủ Tây Ninh rồi còn gì? “Không, đàn bò yak chính là biểu tượng của Tây Tạng đó - anh Sơn giải thích - Chính nó là người bạn song hành cùng người Tây Tạng qua hàng ngàn năm nơi điều kiện khắc nghiệt nhất thế giới này: biên sai nhiệt độ trong ngày có khi lên đến hơn 40 độ, khắp nơi chỉ là núi non, đất đai khô cằn, không khí loãng...”.

Ở những độ cao trên 4.000 - 5.000m hầu như chỉ có bò yak tồn tại cùng người Tây Tạng: lông da để làm áo, sữa để uống, làm bơ, thịt để ăn, thậm chí phân của nó là thứ chất đốt cực ấm, không mùi giúp người Tây Tạng vượt qua những cơn giá rét kinh người.

Khoác bộ áo ấm dày sù sụ mà vẫn cảm thấy rét, tôi càng “kinh hoàng” hơn khi có người nói “những đứa trẻ Tây Tạng mới sinh ra đều được dìm xuống dòng suối lạnh giá. Nếu đứa bé đó chết gia đình phải chấp nhận vì có sống nó cũng không chịu được thời tiết khắc nghiệt ở đây”.

Những câu chuyện huyên thuyên liên quan đến đàn bò yak, về đời sống cư dân Tây Tạng làm chúng tôi đến hồ Thanh Hải lúc nào không biết. Một mảng nước xanh xa đến hút tầm mắt, hèn gì người Trung Hoa xưa vẫn tưởng đây là biển.

Với diện tích 4.635 km2(gấp đôi diện tích TP.HCM), ở độ cao 3.200 m (cao hơn nóc nhà Đông Dương - đỉnh Phanxipăng ở VN) hồ Thanh Hải còn có đảo chim là nơi hơn 100.000 loài chim quý hiếm di trú…

Tuy nhiên, thật đáng buồn, cũng như nhiều nơi du lịch ở VN, ngoài việc phải mua vé 20 tệ/người (khoảng 40.000 VND) chúng tôi lại còn bị chèo kéo mua hàng lưu niệm, chụp hình. Một đoạn hồ Thanh Hải bị “băm nát” bởi các tác phẩm kiến trúc nhái Mông Cổ, Tây Tạng một cách kệch cỡm, quanh khu du lịch dọc theo bờ hồ còn bị quây bởi hàng rào kẽm gai(?!)…

Leo lên đỉnh thử sức

Hơi thất vọng về sự xô bồ, thiếu nét đặc thù riêng của hồ Thanh Hải nhưng chúng tôi cũng không có thời gian để buồn vì phải bắt tay ngay vào kế hoạch thứ hai: chinh phục đỉnh “Thử Sức”. Đó là tên do chúng tôi đặt cho một ngọn trong dãy núi nằm dọc theo hồ Thanh Hải với mục đích chuẩn bị thể lực, ý chí cho những ngày “khốc liệt” hơn đang chờ trong những ngày du khảo “ta balô” sắp tới.

Chỉ mới kết thúc phần khởi động bằng cách đi bộ hơn 2km để đến chân núi, chúng tôi đã thấy lả người và hiểu ngay đó là hội chứng của độ cao: thiếu oxy và không khí loãng. Cơ thể người Tây Tạng tự “điều chỉnh” mở rộng mạch máu, giúp vận chuyển oxy đi khắp cơ thể tốt hơn.

Phổi của họ có khả năng tổng hợp ôxit nitơ trong môi trường rất lớn mà ôxit nitơ có khả năng tăng đường kính mạch máu, nhờ đó lượng máu luân chuyển trong cơ thể cũng tăng lên, bù đắp cho lượng oxy vốn quá “hẻo”. Chúng tôi không làm được như thế nên chỉ biết cách… ngồi thở dốc, nghỉ một chút cho hồi sức, rồi bắt đầu tiến lên đỉnh “Thử Sức”.

Nói đúng ra, đỉnh núi này chỉ cao xấp xỉ Lang Bian ở Đà Lạt. Nhưng ở độ cao gần 3.200m (tính từ chân núi) cùng với cái lạnh khoảng âm 60C thì đây thật sự là một thử thách, ít ra là đối với chúng tôi, hai chàng trai đồng bằng ở Sài Gòn đô hội.

Dãy núi dọc hồ Thanh Hải gần như “trọc”. Chỉ có những bụi cỏ khô và tuyết. Vì thời gian có hạn, chúng tôi quyết định không đi theo đường mòn mà băng thẳng leo lên. Tuyết bám thành từng mảng trên triền núi, độ dốc lại khá cao nên dù đã chuẩn bị đôi giày có độ bám tốt nhưng chúng tôi vẫn phải men, bám theo các bụi cây, cỏ (đã chết khô vì gió tuyết) để leo lên.

Sau những bước leo đầy tự tin, phấn khởi thì nhịp đập của trái tim ngày càng dồn dập, những bước chân càng trở nên nặng nề, đầu óc choáng váng hơn... Đến lúc này tôi mới nhớ đến lời cảnh báo của cô nhân viên khách sạn ngày hôm qua khi biết chúng tôi có ý định leo núi: “Nên đi thật chậm để làm quen. Nhiều người đã xỉu vì sốc độ cao ở vùng này”.

Càng lên, các ngọn núi khoác bộ áo tuyết trắng càng hiện rõ hơn. Đàn bò yak đang gặm mớ cỏ đã chết khô cũng bị chúng tôi “qua mặt”. Càng lên cao gió càng mạnh hơn. Ba lớp vớ, bốn lớp áo cùng hai đôi găng tay cũng không ngăn nổi cái lạnh rúc vào tận xương.

Ở độ cao này, “bò” lên chừng chục bước đã phải ngồi phịch xuống há hốc mồm ra thở để thu được nhiều oxy hơn... Lên đến đỉnh cũng là lúc sức lực cạn kiệt. Tuyết bay, gió lạnh cũng chẳng làm bận tâm: chúng tôi vừa thắng được chính mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/04/2012(Xem: 3665)
Tất cả các học phái Phật giáo đều nói về lí tính duyên khởi (the principle of pratiya samutpada) nghĩa là các hiện tượng sinh khởi tùy thuộc vào các hiện tượng khác. Đức Phật đã trình bày mười hai chi, từ chi thứ nhất – căn bản vô minh (fundamental ignorance) – đi tới chi thứ mười hai – già và chết -- để diễn tả bản chất duyên khởi của sinh tử luân hồi. Khi cơ chế vận hành của nguyên nhân và hiệu quả là tâm yếu của bốn thánh đế được giải thích đầy đủ chi tiết, chúng ta đi tới giáo pháp của đức Phật về mười hai chi của duyên khởi.
10/04/2012(Xem: 4740)
Trau dồi từ ái làm tiến bộ nguyện ước chúng sinh đánh mất hạnh phúc sẽ gặp gở hạnh phúc và nguyên nhân của nó. Bây giờ, mục tiêu là để mở rộng chu vi từ ái của chúng ta vượt khỏi phạm vi hiện tại. Chẳng hạn sự mở rộng sẽ đến một cách tự nhiên trong sự thực tập của chúng ta sau khi đã phát triển một cảm nhận tình cảm với người khác, những người muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.
04/04/2012(Xem: 3881)
- Kính bạch thầy, tôi là người không theo đạo Phật, nhưng tôi thấy tại sao thế giới này chiến tranh hoài mà không có ngày thôi dứt. Vậy kẻ thù của nhân loại là ai? Thầy trả lời: Đây là câu hỏi dường như dễ, nhưng lại là khó! Vì sao? Chẳng lẽ con người với nhau mà là kẻ thù, coi sao được? Nếu không phải là kẻ thù, vậy ai chính là thủ phạm? Xin thưa, kẻ thù của nhân loại là “chính mình”, đây là một sự thật ít ai ngờ tới. Để hiểu được rõ ràng, thầy sẽ kể cho bạn một câu chuyện có tính cách minh họa và ẩn dụ sâu sắc, để ta và người cùng tìm ra kẻ thù đang tiềm ẩn ở đâu? Một nhà sư nọ thường có những biểu hiện nóng giận, tham lam và ích kỷ. Mặc dù xuất gia đầu Phật đã lâu nhưng những cố tật ấy, làm cho nội tâm của thầy luôn bị khủng hoảng. Vốn là người quyết chí tu hành thoát ly sống chết đời này, nên nhà sư luôn tự quán xét lại chính mình mà thấy rõ bệnh “ ngu si chấp ngã” rất nặng nề và từ đó thầy quyết tâm lập chí làm mới lại chính mình.
04/04/2012(Xem: 3117)
1-Người Phật tử cần phải thiền trong đi đứng nằm ngồi, trong sinh hoạt hằng ngày sẽ giúp cho chúng ta nhận biết được rõ ràng những ý nghĩ, lời nói, hành động của mình là thiện hay bất thiện, để ta sửa sai điều xấu ác và biết phát huy điều tốt đẹp. 2-Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình để có được an lạc hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và xã hội. 3-Người Phật tử khi đi chùa phát tâm cúng dường phải biết nhu cầu ở trong chùa là gì, để việc phát tâm cúng dường của chúng ta có được lợi ích thật sự mà không lãng phí xa hoa.
31/03/2012(Xem: 3350)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai chạy... Quãng đời nghiệp chướng Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.
31/03/2012(Xem: 3402)
Vì nhân duyên ta lại gặp nhau Giữa dòng đời tất bật, ngược xuôi Sống dưới mái ấm gia đình Ta dành cho nhau chút tình yêu thương. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời mấy ai được nghĩa vẹn toàn Ta yêu thương trong dày vò Ta đến với nhau vì thiếu hiểu biết.
29/03/2012(Xem: 3235)
Chúng ta đến với nhau Bằng tình yêu luyến ái Là tự mình ràng buộc Trong nhiều kiếp mai sau. Muốn chấm dứt sống chết Hãy diệt trừ tham ái Chuyển hóa sự vô minh Để sống đời hạnh phúc.
26/03/2012(Xem: 3226)
Nhân quả là chân lý sống, không thể thiếu trong gia đình và xã hội, nơi nào không tin nhân quả sẽ sống trong loạn lạc, phi đạo đức. Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Còn ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân, miệng, ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy, thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm dám chịu không đổ thừa cho ai.
17/03/2012(Xem: 9539)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
12/03/2012(Xem: 3514)
Duy thức, như tất cả các con đường khác của Phật giáo, nhằm đến mục tiêu chiến lược là thấy được “hai vô ngã: nhân vô ngã và pháp vô ngã”. Nhân vô ngã là con người vô ngã. Pháp vô ngã là mọi hiện tượng đều vô ngã. Thấy được hai vô ngã là thấy thực tại tối hậu, gọi là tánh Không, Niết-bàn, Pháp thân, Chân Như… Nói theo hệ thống Duy thức, thấy hai vô ngã là giải tan Biến kế sở chấp tánh để Viên thành thật tánh hiển bày. Sanh tử là do không biết rằng tất cả đều do thức biến hiện. Kinh Lăng Già đời Tống, Cầu-na Bạt-đà-la dịch: “Thế nào người trí ở ngay nơi lầm loạn này mà khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, ở bên ngoài đều vô tự tánh nên chẳng có tướng vọng tưởng”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]