Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Thư của HT. Thích Tịnh Hạnh về Cô Thanh Hải

07/11/201216:17(Xem: 19034)
03. Thư của HT. Thích Tịnh Hạnh về Cô Thanh Hải

LINH SHAN BUDDHIST INSTITUTE
Giảng Đường Linh Sơn và Viện Nghiên Cứu Phật Học

7 F. 21, Sec. 1, Chung-Hsiao West Road.
Taipei, Taiwan, 100. ROC
Telephone: (02) 3613015 – 3613016

Trung Hoa Dân Quốc ngày 3 tháng 6 năm 1990

Kính gởi toàn thể Phật tử:

Kính thưa quý vị,

Nhiều vị đã có dịp đi nghe cô Thanh Hải giảng đạo dưới hình thức là một tu sĩ Phật Giáo, nhưng với nội dung, nếu vị nào hiểu được một phần giáo lý của đạo Phật, đều cho rằng luận điệu của cô Thanh Hải là phá hoại Phật Giáo. Vấn đề cô Thanh Hải giảng đạo tạo ra sự bất bình sâu rộng trong Giáo Hội Phật Giáo Trung Hoa Dân Quốc và toàn thể Phật Giáo đồ xứ này; lại đang lan rộng ra trong hàng lãnh đạo và toàn thể Phật tử Việt Nam hải ngoại.

Với sự việc trên, tôi đã hiểu rõ từ lâu, vì tại Đài Loan đã có nhiều tờ báo Phật Giáo phê bình về luận điệu phá hoại ấy. Nhưng tại Đài Loan số người Việt Nam theo tôi được biết thì đếm không hết mười đầu ngón tay, mà cô Thanh Hải là người Việt Nam nên tôi không đành làm công việc đổ dầu vào lửa, mặc dù trong giới Phật Giáo Đài Loan nhiều lần yêu cầu tôi lên tiếng, vì họ biết tôi cũng là người Việt Nam. Nhưng có nhiều người cho cô Thanh Hải là đệ tử của tôi nên đã có nhiều lời trách tôi tại sao tôi cho cô Thanh Hải làm việc như vậy. Do đó mới có lá thư này.

Theo tôi được biết, cô Thanh Hải sanh tại tỉnh Quảng Ngãi, miền Trung Việt Nam, học tới năm Đệ Nhị, năm 19 tuổi rời khỏi Việt Nam ra nước ngoài, có quốc tịch Anh, tại Tây Đức có chồng làm Bác Sĩ đã từng quy y với Thấy Thích Như Điển với pháp danh là Thị Nguyện, sau đó sang Ấn Độ học với mấy vị Lạt Ma Tây Tạng, rồi theo học với một người Ấn Độ theo đạo Sikh tên là Jampa Ghesbe Ngawang Dargey và học với một người Ấn Độ khác tên là Thakar Singh, được truyền cho “năm câu chú”, “phương pháp ấn tâm” và “huyễn pháp Thanh Sắc Quang Ảnh”.

Cô Thanh Hải đã xuất gia từ Ấn Độ. Năm 1983 đến Đài Loan thọ giới Tỳ Kheo Ni, tự xưng là người Việt Nam, nên Giáo Hội Phật Giáo Đài Loan gọi điện thoại đến tôi nhờ tôi cho Thanh Hải tá túc cho đến khi tham gia thọ giới. Tôi liền bằng lòng. Vì cô Thanh Hải không muốn dùng pháp danh Thị Nguyện, nên yêu cầu tôi cho pháp hiệu nên tôi đã cho pháp hiệu là Thanh Hải. Sau đó, tôi biết Thanh Hải tu theo ngoại đạo, tôi khuyên nên bỏ và cố gắng học Phật, nhưng THanh Hải không nghe, rồi sau đó ra đi. Từ khi Thanh Hải bắt đầu truyền đạo thì không đến tôi nữa, vì Thanh Hải biết là tôi không hài lòng về việc Thanh Hải dùng hình thức người xuất gia của Phật Giáo mà truyền bá tư tưởng ngoại đạo.

Cô Thanh Hải khi bắt đầu truyền đạo, vì muốn đạt đến mục đích bất chánh, đánh lừa thính giả có cảm tình với Phật Giáo hay những tín đồ đạo Phật mà không rõ giáo lý của đạo Phật nên đưa ra đề tài là “Phương Pháp Quán Âm” và tự xưng là Hiện Tại Phật. Cô Thanh Hải lại dung chiêu bài “tức khắc khai ngộ, một đời giải thoát” để dụ người vào lưới ngoại đạo.


Thanh Hai

Cô Thanh Hải nói dối rằng giảng dạy phương pháp Quán Âm, nên mọi người đều nghĩ rằng phương pháp tu hành của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, mà sự thật dạy quán “Thanh Sắc Quang Ảnh”, không dính dấp gì với Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cả, lại tự xưng là Hiện Tại Phật. Căn cứ nơi kinh Phật, đây là một tội đại vọng ngữ rất nặng, chỉ có kẻ hành ma đạo mới dám nói như vậy mà thôi. Nếu ai có chỉ trích thì Thanh Hải nói với tín đồ là người ta đố kỵ. Thanh Hải phải trả lời sao về những lời chỉ trích của toàn thế giới trí thức Phật giáo Đài Loan đều cho rằng Thanh Hải đã phá hoại Phật Giáo vì Thanh Hải đã dùng hình thức là một tu sĩ của Phật Giáo mà giảng nội dung đều là của đạo Sikh? Đôi khi Thanh Hải có đề cập đến kinh Phật, nhưng giảng giải sai lầm và phê bình Phật Giáo là thế này là thế nọ. Thật sự Thanh Hải chưa từng có thời gian nào để học Phật. Thanh Hải khi đề cập đến kinh Phật với mục đích chỉ để huyễn hoặc lòng người rằng Thanh Hải là người đã từng nghiên cứu kinh Phật mà thôi. Thanh Hải dùng phương pháp ấn tâm chỉ là sự phái âm binh để khống chế người theo đạo. Đây là phương pháp dùng chú thuật của ngoại đạo thường thấy nhiều nơi. Phương pháp này chỉ có thể huyễn hoặc những kẻ hiếu kỳ mê muội mà thôi. Những người chánh tín đạo Phật không ai dùng và tin phương pháp đó.

Nếu chúng ta quy y với Phật thì đời đời kiếp kiếp gặp Phật pháp tu hành cho đến ngày thành Phật. Nếu ai quy y với Thanh Hải thì đời đời kiếp kiếp quanh quẩn trong rừng ngoại đạo, vĩnh viễn trong sáu nẻo luân hồi, muôn kiếp cũng khó gặp được chánh pháp của Phật, nói gì đến chuyện giải thoát, giác ngộ. Thanh Hải với chiêu bài khai ngộ giải thoát chỉ là một thủ đoạn đánh lừa quần chúng mà thôi.

Do đó người Phật tử chân chính chẳng những không tin theo Thanh Hải, mà còn có bổn phận phải giảng giải để mọi người cùng biết Thanh Hải không phải là một vị chân chánh Tỳ Kheo Ni của Phật Giáo. Những lời Thanh Hải giảng giải không phải là những lời Phật dạy.

Thanh Hải còn làm một điều trái luật của Phật nữa là Thanh Hải là một vị Tỳ Kheo Ni mà dám độ cho hàng nam chúng xuất gia thọ Tỳ Kheo giới làm đệ tử của mình.

Nếu Thanh Hải mặc sắc phục ngoại đạo truyền giáo pháp ngoại đạo thì trong giới Phật Giáo không ai chỉ trích Thanh Hải cả.

Sau đây một lần nữa chứng tỏ hùng hồn rằng Thanh Hải cố ý dùng tư cách của một Tỳ Kheo Ni Phật Giáo truyền đạo, rồi thêm vào đó là chú thuật của ngoại đạo để phái âm binh khống chế người nghe, toàn là thủ đoạn mới hấp dẫn người nghe. Nếu từ khi bắt đầu Thanh Hải dùng hình thức là một ngoại đạo truyền đạo Sikh thì sẽ có mấy người muốn đi nghe và tin theo?

Câu chuyện là thế này: Năm ngoái thầy của Thanh Hải (Thakar Singh) đến Đài Loan giảng đạo, vì ông ta nghe tin Thanh Hải giảng đạo tại Đài Loan rất có nhiều người nghe theo. Ông ta cho thuê hội trường nhiều nơi và nhiều ngày, lại đăng trên nhiều tờ báo lớn vào những cột báo phải tốn nhiều tiền liên tiếp cho nhiều ngày, hội trường thì có thể dung nạp hằng bao nhiêu ngàn người. Nhưng mỗi lần ông ta giảng chỉ vỏn vẹn có ba bốn chục người đến nghe mà thôi. Trong số thính giả này tuyệt đại đa số là hiếu kỳ, vì ông ta tuyên bố rằng ông ta là thầy bổn sư của Thanh Hải, nên mấy người đó nghe xem như thế nào thôi. Trong số thính giả đó có ai quy y theo ông ta. Rất oái oăm, suốt thời gian ông ta đến ở và đến ngày ra đi, Thanh Hải không dám kiến diện ông ta một lần. Điều này khiến cho ông ta rất tức giận ngay trong buổi giảng, trách Thanh Hải đã lạnh nhạt quá đáng. Ông ta nói tại sao Thanh Hải mỗi khi qua Ấn Độ đều đến ở với ông lâu ngày thầy trò nồng hậu, mà sao khi ông ta từ Ấn Độ xa xôi lại không tiếp đón? Ông ta lại trách Thanh Hải giảng đề tài bậy bạ. Ông ta nào có dạy “phương pháp Quán Âm”.

Sự thật, ông ta nào có biết Thanh Hải rất khổ tâm khi nghe tin ông ta sắp đến và ở lại suốt cả một thời gian dài. Thanh Hải làm sao dám tiếp. Vì nếu Thanh Hải tiếp xúc với ông ta thì ăn làm sao nói làm sao với hàng đệ tử của Thanh Hải. Vì đệ tử Thanh Hải những tưởng từ lâu nay thầy mình là một vị tu sĩ Phật Giáo Phật Giáo chân chánh mới tin và theo Thanh Hải. Bây giờ đùng một cái, thầy bổn sư của Thanh Hải vốn là một người theo đạo Sikh (tín đồ của đạo Sikh đã giết bà Thủ tướng Ấn Độ) và từ lâu nay tu theo phương pháp của thầy dạy chỉ là phương pháp của đạo Sikh mà thôi. Lại ông ta trách Thanh Hải giảng giải với đề tài “phương pháp Quán Âm” không giống như ông ta đã dạy Thanh Hải. Ông ta không biết rằng Thanh Hải chỉ lợi dụng đề tài ấy mới có thể mê hoặc lôi kéo người nghe, kỳ thật nội dung đều y theo ông ta đã dạy không sai đâu đừng lo. Ngoài những điều ông ta dạy ra, Thanh Hải nào có biết phương pháp Quán Âm thật sự là gì?

Tạm viết ra mấy hàng trên để mọi người cùng hiểu cô Thanh Hải truyền đạo là như vậy đó, mà có người mê muội cho Thanh Hải là một nữ Thánh, cho Thanh Hải là một Phật tại thế. Thật đáng thương hại lắm vậy. Theo ý kiến của tôi, hiện nay Thanh Hải phải dứt khoát chọn một trong hai đường:

1. Thanh Hải nếu còn mến lối tu hành của đạo Sikh thì không nên dùng sắc phục tu sĩ Phật Giáo và tuyên bố cho thính giả mỗi khi sắp giảng biết rằng nội dung của Thanh Hải giảng đều là nội dung tu trì của đạo Sikh, không liên quan gì đến Phật Gíao cả.

2. Nếu Thanh Hải muốn quyết tâm quay về tu hành theo chính thống Phật Gíao thì nên dứt hẳn không theo nội dung đạo Sikh, tôi sẽ giúp cho Thanh Hải trở thành nhà chân chánh Phật Giáo.

Chúc mỗi vị Phật tử đều có chánh kiến.

Kính thư,

Thích Tịnh Hạnh (*)


(*) Vài Nét về Hoà Thượng Thích Tịnh Hạnh

Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh sinh và xuất gia tại Việt nam. Năm 1952 vào Phật Học Đường Nam Việt - Chùa Ấn Quang học nhiều năm.

- Tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh Việt Nam
- Tốt nghiệp Cao Học và Tiến Sĩ Văn Chương và Triết Học Trung Hoa
tại trường Đại Học Sư Phạm Đài Loan.
- Đậu bằng Tiến Sĩ Quốc Gia của Trung Hoa Dân Quốc
- Giáo sư cấp Cử Nhân và Tiến Sĩ Học Viện Sư Phạm Công Lập Đài Bắc
- Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Trung Hoa Dân Quốc
- Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Thế Giới có trụ sở tại Paris Pháp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 27548)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 14526)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 5275)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
16/09/2020(Xem: 5810)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 7151)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 11091)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4845)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4764)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 14237)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8526)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com