Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

23/11/201203:25(Xem: 3863)
Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

TRUNG QUÁN TÔNG và ÁNH SÁNG TÂM LINH

Huỳnh Ngọc Chiến

Trong phần mở đầu chương 3 của tác phẩm The Grand Design(Bản thiết kế vĩ đại), nhà vật lý thiên tài Hawking đã nêu lên một vấn đề lý thú. Cách đây mấy năm, hội đồng thành phố Monza ở Italy đã cấm không cho những người thích nuôi vật cưng được nuôi giữ cá vàng trong những cái bể nước kính cong. Họ lý giải rằng điều đó thật là tàn nhẫn, vì nếu như thế, khi nhìn ra ngoài, con cá sẽ có cái nhìn sai lệch về thực tại. Thế rồi tác giả đặt câu hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng ta đã có bức tranh chân thực, không hề sai lệch về thực tại?”(2). Câu hỏi đó là nỗi băn khoăn muôn thuở của con người.

Liệu cái thế giới mà chúng ta đang nhìn thấy đây phải chăng là cái thế giới y như thực? Đâu là khuôn mặt thực của thế giới? Đâu là chân tướng của vạn hữu? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật? Vấn đề này đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa các trường phái triết học, khi con người bắt đầu khai mở tâm thức để đối diện với thế giới chung quanh.

Tìm hiểu được chân diện mục của thế giới vẫn là nỗ lực không ngừng của con người. Suốt mấy ngàn năm qua, hàng trăm tông phái, học thuyết nối tiếp nhau ra đời trên khắp cõi Đông Tây kim cổ, với hàng ngàn các triết gia luôn khẳng định một bức tranh do mình đưa ra là hình ảnh chân thực duy nhất về thế giới. Và có bao nhiêu bức tranh “chân thực” là có bấy nhiêu sự xung đột và mâu thuẫn giữa chúng! Sự xung đột giữa các kiến giải bất đồng về bức tranh thế giới vẫn kéo dài liên miên suốt mấy ngàn năm qua trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Giống như loài cá vàng nhìn thế giới qua tấm kính cong và “xác lập” nên những quy luật vận động phù hợp với thế giới đó; cũng vậy, con người đã dùng biết bao mô thức tư duy (thought-pattern) để cố xác lập chân diện mục của thực tướng theo cách nhìn của mình; áp đặt mọi thứ phạm trù Nhân và Quả, Động và Tĩnh, Dạng thức và Bản thể, Đồng và Dị, Nhất và Đa v.v... lên Thực tướng khiến Thực tướng đã bị che mờ dưới mạng lưới lạnh lùng của tư duy.

Mọi con đường của lý tính đều dẫn đến bế tắc, khi cố vươn đến chân diện mục của Thực tướng, do chính bản chất xung đột của lý tính (conflict of Reason). Hai bài toán “ngụy biện” đơn giản của Zeno(3) vẫn lơ lửng ở đấy như một thách thức điển hình cho mọi hệ thống lý luận của con người, để con người tỉnh ngộ hiểu ra rằng những mô thức tư duy mà mình áp đặt lên thực tại đều sai lệch, vì cứ muốn dùng Tục đế (savti)để thể ngộ Chân đế (parāmartha)bằng phương pháp suy diễn theo kiểu lý luận học phương Tây.

Khi nào con người chưa liễu ngộ được bản chất xung đột của lý tính, vẫn còn hoang tưởng rằng có thể dùng lý luận để phát lộ “chân diện mục của Lô sơn” thì Achille vẫn suốt đời không đuổi kịp chú rùa, và mũi tên vĩnh viễn không bao giờ bay đến đích, vì giữa lý tính và thực tướng có một hố thẳm không thể vượt qua, khi ta áp đặt nó thành một cấu trúc tư duy (Thought-Construction) được hình thành do tác động của Vô minh.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, hầu như đã giam hãm toàn thế giới trong mạng lưới tư duy duy lý, khiến không ít bậc thức giả hầu như tin tuyệt đối vào sự thống trị của lý trí Âu châu một cách hoàn toàn mù quáng. Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là “tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu(4).

Triết học Ðông phương, đặc biệt là Phật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý tính. Người ta không tin rằng lý tính có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tích tổng hợp hay tích lũy kiến thức của nó. Bởi vì điều đó chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa, nếu không có được một đầu mối nhất dĩ quán thấu suốt tất cả để thành Nhất thể viên dung.

Phản bác mọi phạm trù tư duy và tất cả các kiến giải không có nghĩa là phản bác chức năng của lý tính mà chỉ có nghĩa là phản bác năng lực của lý tính trong vấn đề liễu tri được Thực tướng. Cái Thực hữu [Real] vốn bất khả tư nghì, siêu việt cảnh giới của tư tưởng; nó là phi nhị nguyên, là Không (śūnya), siêu quá nhị nguyên tính đối đãi giữa Hữu và Vô.

Nhận thức được sự xung đột của lý tính và nỗ lực giải quyết xung đột đó bằng cách nâng nó lên một bình diện cao hơn lý tính, đó là lưỡi Tuyệt đao của Trung quán tông. Trung quán tông đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, tức sự xung đột của lý tính, theo kiểu đơn đao trực nhập, luận phá mọi mô thức khái niệm, xem chúng đều rỗng không (śūnya), và giới hạn chúng vào trong phạm vi tục đế.

Từ gần hai ngàn năm qua, kể từ khi xuất hiện trên đỉnh cao chót vót giữa phương trời tư tưởng lồng lộng của Ấn Độ, lưỡi Tuyệt đao của đại luận sư Nāgārjuna đã quét sạch những kiến giải hư ngụy trong não trạng loài người, gây nên một cơn chấn động vô tiền khoáng hậu trong toàn cõi đạo giáo phương Đông bằng tánh Không (Śūnyatā)gây kinh hãi. Tánh Không Trung quán tông phá hủy mọi lập trường, mọi kiến giải, quét sạch toàn bộ thế giới vật lý và tâm lý với Lục căn, Lục trần, Lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - trong cơn cuồng phong phủ định toàn triệt của các chữ Bất, Phi, Vô; giống như Độc cô cửu kiếm dùng vô chiêu để tận phá mọi kiếm pháp hữu chiêu trong thiên hạ. Chiêu thức của Độc cô cửu kiếm là vô chiêu, không đánh theo một chiêu thức nào chỉ mà đánh vào chỗ sơ hở của kiếm pháp đối phương để phá giải; cũng giống như kiến giải của Trung quán tông là Không chư kiến(śūnyatā of dṛṣṭi : 空 諸 見) tức xem mọi kiến giải đều là Không (śūnya); đó là kiến giải phi kiến giải, lập trường phi lập trường, quan điểm phi quan điểm. Trung quán tông, do đó, luận phá mọi kiến giải của đối phương bằng cách phát lộ cho đối phương thấy những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại trong mọi thể cách lập luận của họ, nhưng lại không hề đưa ra một kiến giải mới, vì kiến giải mới, nếu có, cũng là Khôngnốt; nếu khác đi thì kiến giải mới đó cũng sẽ chứa những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại, nên nó sẽ tiếp tục bị luận phá, rồi sự luận phá mới đó lại dẫn đến một kiến giải mới khác nữa; điều đó sẽ dẫn đến sự hồi quy vô tận [regress ad infinitum]. Đối với Trung quán tông, bản thân sự luận phá mọi kiến giải tự nó đã là một kiến giải, cũng như đường kiếm vô chiêu tự nó đã hình thành một chiêu thức. Đó là ý nghĩa của hai chữ “phê phán” (criticism) mà tác giả Murti dùng trong suốt tác phẩm, trong nỗ lực muốn dìu những độc giả quen thuộc với tư tưởng “phê phán” của Kant và biện chứng pháp của Hegel, đặc biệt là Kant, tiếp cận được thông lộ dẫn về cội nguồn của Bát bất Trung đạo của Trung quán tông, đồng thời vạch ra những suy tư hời hợt của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi đồng nhất triết học về Tánh Không của Trung quán tông với hư vô luận [nihilism] một cách thiển cận và hời hợt.

Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã) hay Trực giác Vô nội dung [contentless Intuition]. Đó là Bất nhị trí hay Vô phân biệt trí. Nội dung của Trực giác Vô nội dung là Cảnh giới tuyệt đối hay Toàn thể thực tướng, chứ không phải là một đối tượng cụ thể bất kỳ nào. Khi mọi kiến giải theo mô thức tư duy bị quét sạch khỏi tâm trí, khi tâm không còn chướng ngại thì nó sẽ hoàn toàn trong suốt. Trong cảnh giới đó, Tâm và Thực tướng viên dung hòa hợp, bất khả phân ly trong Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - một cảnh giới hoàn toàn tương phản với quan niệm hiện đại xem triết học là một khoa học phổ quát, dung hợp được nhiều ngành khoa học khác nhau vào một hệ thống mạch lạc.

Trong pháp môn Lục độ, Prajña (trí Bát-nhã) phải đi cùng với bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna)mới có thể giúp tâm thanh tịnh để thể ngộ chân lý. Rồi đến lượt đó, Prajña lại giúp cho các pāramitā kia được hoàn thiện, tựu thành vô lượng điều toàn mỹ, khiến cho mỗi pāramitā được là pāramitā - hay sự toàn mãn. Chỉ có Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - tức một loại Chân trí bằng trực giác phi khái niệm - mới có thể là loại thuốc đối trị hữu hiệu mọi vọng tưởng phân biệt vọng tưởng (vikalpa) của lý trí con người.

Prajñāpāramitā là chỗ kết tinh của mọi lý luận trong thiên hạ, còn tánh Không làm tiêu dung tất cả các kiến giải cổ kim. Mô phỏng theo Ngọa Long Sinh(5) ta có thể nói “Trước Thiên kiếm Prajñāpāramitā, lý luận không còn tuyệt học; dưới Tuyệt đao Śūnyatā,kiến giải không có sinh cơ.”! Đẩy lý trí con người vào tuyệt lộ bằng pháp môn quy mậu chứng pháp (prasanga) hay phương pháp quy kết bội lý (reductio ad absurdum), đưa tất cả mọi biện giải đến chỗ bế tắc, buộc tất cả các luận sư uyên bác phải đối diện với sự sụp đổ tan tành của mọi hệ thống lý luận, của mọi nền triết học do những mâu thuẫn xung đột nội tại, để thấy được rằng mọi điện đài duy lý đồ sộ của họ đều là những công trình xây trên cát; đó là Tuyệt đao. Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Prajña là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối; trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là khẳng định, để đưa tâm thức con người đến cảnh giới giải thoát tối hậu, đó là Thiên kiếm. Tuyệt đao thì phá hủy mọi kiến giải theo thể cách của Trí tuệ, còn Thiên kiếm thì từ bi hóa độ theo thể điệu của Bi tâm. Cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho hành giả tìm về cõi đạo uyên nguyên trong sự im lặng của Đức Phật- sự im lặng bao trùm tất cả những chân trời tư tưởng của nhân loại. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thoáng Tuyệt đao. Và tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành cái một tuyệt đối, viên dung nhất thể trong phương trời lồng lộng của cõi viên mãn Như Lai.

T.R.V Murti được xem là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất về triết học Ấn Độ trong thế kỷ XX. Ông đã phân tích và đánh giá cặn kẽ giáo lý Trung quán tông qua cái nhìn thông tuệ của một bậc thức giả phương Tây đầy uy tín, một người được giới học giả xem là người có đầy đủ thẩm quyền về kinh điển Ấn Độ mà ông hầu như thuộc lòng, như kinh điển Phật giáo, kinh văn Upanisads, văn phạm của Panini, cùng nhiều kinh văn quan trọng khác…

T.R.V Murti là một bậc thức giả phương Tây, nhưng tâm hồn ông lại được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh phương Đông, nên đọc ông, ta có cảm giác gần gũi như một bậc luận sư phương Đông đã thấu hiểu tận ngọn ngành của triết học phương Tây, liễu tri được toàn bộ sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy theo kiểu Âu châu. Một người được nuôi dưỡng trong bầu không khí triết học phương Tây lại mạnh dạn khẳng định : “Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh”(6). để kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệt là Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo, xem như đó là lối thoát cuối cùng và duy nhất cho toàn thế giới. Cũng như Heidegger, ông ý thức sâu sắc sự tàn phá khốc liệt của nền văn minh phương Tây đối với tư tưởng nhân loại. Toàn thể nhân loại đang khát khao mong đợi sự hợp nhất tâm linh cho một thế giới đang bị xâu xé tan nát bởi biết bao sự xung đột, bởi những hệ tư tưởng hiếu chiến đang đe dọa nhận chìm toàn thể thế giới vào sự diệt vong. Những phát minh khoa học, đặc biệt là mạng internet với những chiếc máy tính đã tạo thành một hệ thống tinh xảo để nối kết toàn cầu vào trong mạng lưới khổng lồ của những siêu xa lộ thông tin. Không gian dường như đã dần thu hẹp lại, thế giới dường như đã có thể dần sát kề vai nhau, thế nhưng sự khác biệt và xung khắc giữa con người, giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc lại gia tăng một cách khủng khiếp; đấu tranh và thống khổ vẫn ngập tràn trên cõi thế. Chiến tranh đã trở thành căn bệnh kinh niên lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi trình bày sự hỗn loạn và đổ vỡ tràn lan trên cõi thế, Murti mạnh dạn kết luận:

“Căn nguyên nào có gì là bí ẩn đâu. Nền văn minh phương Tây, kể từ thời phục hưng, đã phát triển mạnh mẽ theo lộ tuyến duy vật (materialistic lines) và trở thành quy phạm cho toàn thế giới… Con người đã chinh phục được thiên nhiên hoặc gần như đã làm được điều đó, nhưng lại không làm chủ được bản thân mình. Hậu quả thật là thảm khốc. Cuộc sống được tổ chức tưởng chừng ổn định và an toàn đã trở nên bấp bênh, bất ổn. Chúng ta giành được cả thế giới nhưng lại đánh mất linh hồn(7).

Mọi chủ trương tăng gia số lượng sản phẩm và tổ chức lại cơ cấu xã hội để đem đến bình yên cho thế giới đều thất bại, khi những nỗ lực đó không có một nền tảng tâm linh. Mọi sự đối thoại giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc đều bế tắc không thể dẫn đến cảm thông, khi con người chỉ có thể nhìn nhau như loài cá vàng nhìn thế giới qua bể kính nước cong. Chỉ có tâm linh mới đem đến một nền tảng thực sự cho xã hội, và hướng dẫn con người thực hiện được những giá trị khác. Về phương diện này thì Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo với tư tưởng Prajñāpāramitā thù thắng và Tánh Không (Śūnyatā)thâm diệu sẽ là “nền tảng cho sự phục sinh tâm linh cho thế giới” (back-ground for the spiritual regeneration of the world)(8), như Murti, và cả loài người, đang mong đợi.

Chú thích

(1)Cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm “The Central Philosophy ofBudshism”của T.V. Murti.

(2)“But how do we know we have the true, undistorted picture of reality?” (Hawking, The Grand Design,Bantam Books, New York, 2010, p. 50.)

(3) Nghịch lý Achille và con rùa: là nghịch lý nổi tiếng của Zeno. Achille là một dũng sĩ Hy Lạp có tài chạy nhanh. Achille và Rùa cùng chạy thi. Giả sử rùa đứng trước Achilles 100 mét, và tốc độ của Achille gấp 100 lần rùa. Khi Achilles chạy được khoảng cách 100 mét, đến vị trí xuất phát của rùa, thì rùa đi được 1m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 1m đó thì rùa lại đi được 10-2m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 10-2m đó thì rùa lại đi được 10-4 m v.v... Cứ tiếp tục mãi như vậy, khoảng cách giữa Achille và rùa sẽ tiến đến con số cực vi dạng 10-2n, nhưng không bao giờ bằng 0. Do đó, dũng sĩ Achilles không bao giờ đuổi kịp chú rùa!

Nghịch lý mũi tên bay: Ta bắn 1 mũi tên từ vị trí A đến tấm bia ở vị trí B. Mũi tên muốn đến được B thì phải đi qua trung điểm A1 của AB, muốn đến được A1 thì phải qua trung điểm A2 của AA1, muốn đến được A2 thì phải qua trung điểm A3 của AA2 v.v... Cứ tiếp tục như vậy, mũi tên phải lần lượt qua vô hạn các trung điểm của các đoạn thẳng chia nhỏ, do đó mũi tên không bao giờ đến được đích!

(4)“Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn như thế nào. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.” (Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr. 99).

(5)Lời của Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao phẩm bình kiếm pháp của Thiên hạ đệ nhất kiếmCơ Đồng: 姬 老 兒 劍 下 無 絕 學 , 老 夫 的 刀 下無 生 機 Cơ lão nhi kiếm hạ vô tuyệt học, lão phu đích đao hạ vô sinh cơ. (Dưới kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cơ - Thiên kiếm tuyệt đao 天 劍 絕 刀, chương 4). Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? Với tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghì cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.

(6)“The dialectic of Hegel is a brilliant superfluity, it had no spiritual value”T.V.Murti, The Central Philosophy of Buddhism, Goerge Allen and Unwin, 1968, p. 305.

(7)“The causes are not hidden. Western civilization, which has become the norm for all, has developed, since the Renaissance, along materialistic lines. …. Man has conquered Nature or is very near doing that; but he has not the rudimentary control over himself. The consequences are disastrous. Organised life with any pretence to stability and security has become precarious. We have gained the world, but have lost our soul.”(Op. cit. p. 338)

(8)Op. cit.p. 341.


Huỳnh Ngọc Chiến

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2020(Xem: 5041)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6321)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 7090)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4127)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4193)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 11966)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7304)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
29/08/2019(Xem: 10806)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
26/08/2019(Xem: 4906)
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật. Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường 2/Chư Pháp Vô Ngã 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
07/07/2019(Xem: 5615)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567