Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán đảnh

21/10/201216:59(Xem: 4979)
Quán đảnh

QUÁN ĐẢNH

Kyabje Kalu Rinpoche

quandanh-kalurinpocheThực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởng và trí thông minh của đệ tử nhận nó. Những quán đảnh này mang hình tướng là các nghi thức phức tạp khác nhau. Trong những quán đảnh của các bổn tôn Mật thừa vĩ đại, các kiểu phổ biến và chi tiết nhất của quán đảnh được đặc trưng bởi việc sử dụng một mạn-đà-la cát màu. Kiểu trung bình sẽ sử dụng mạn-đà-la vẽ trên vải. Một kiểu đơn giản hơn là sử dụng mạn-đà-la làm bằng các đống gạo nhỏ. Cuối cùng, trong quán đảnh được giảm tới mức tinh túy, thân của đạo sư, bậc ban quán đảnh hay chỉ một sự đại diện tinh thần đơn giản là đủ để biểu tượng cho mạn-đà-la.

Bốn giai đoạn của một quán đảnh

Một quán đảnh trong dạng thức trọn vẹn phổ biến nhất bao gồm bốn phần nhỏ gọi là bốn quán đảnh.

- quán đảnh bình

- quán đảnh bí mật

- quán đảnh trí tuệ

- quán đảnh thứ tư hay quán đảnh của khẩu cao quý

Các dạng thức đơn giản của quán đảnh hạn chế ở mức trao truyền thân, khẩu hay ý của bổn tôn hoặc chỉ với quán đảnh bình. Tuy nhiên, quán đảnh trong sự trọn vẹn, ám chỉ đến bốn phần như vừa đề cập. Chỉ trong những hoàn cảnh này mà samayagiới mới đóng vai trò đầy đủ và phải được tôn trọng một cách tỉ mỉ với sự trao truyền lực gia trì để mở ra cánh cửa của các thành tựu.

Các giai đoạn chuẩn bị

Vị lạt ma chịu trách nhiệm ban quán đảnh, trước tiên cần tuân thủ Mật điển tham chiếu được tuyên thuyết bởi Đức Phật bằng cách chuẩn bị mạn-đà-la, thứ phục vụ như một hỗ trợ. Mạn-đà-la này có thể là mạn-đà-la cát, mạn-đà-la được vẽ, hay một mạn-đà-la bao gồm các đống gạo nhỏ được đặt một cách biểu tượng trên đế. Tiến hành một mình, vị lạt ma thực hiện một phần của nghi lễ trong ba giai đoạn chuẩn bị.

- dakye, ở đó vị lạt ma tự quán tưởng bản thân trong hình tướng bổn tôn

- dunkye, ở đó vị lạt ma quán tưởng chư bổn tôn trong hư không

- bumkye, ở đó vị lat ma gia trì bình quán đảnh, quán tưởng nó như là cung điện linh thánh mà chư bổn tôn của quán đảnh đang ngự

- cuối cùng, giai đoạn chuẩn bị thứ tư được thêm vào. Vị lạt ma ban quán đảnh cho bản thân (dajuk). Chỉ sau giai đoạn này các đệ tử mới được vào chùa để nhận quán đảnh.

Quán đảnh bình

Đệ tử trước tiên nhận quán đảnh bình, được trao truyền lên thân. Điều này giới thiệu đệ tử với bản tính thanh tịnh của các thành phần khác nhau của tính cách tâm – vật lý của họ. Có năm uẩn, năm yếu tố hay các nhân tố của nhận thức. Quán đảnh này được ban với sự giúp đỡ các Pháp khí nghi lễ, biểu tượng cho năm vị Phật phụ – như là vương miện, chày kim cương, chuông và nhiều thứ khác. Nhờ quá trình này, các lỗi lầm và che chướng liên quan đến thân tan biến và các thành phần của bản thân trở thành những khía cạnh thanh tịnh tương ứng: năm vị Phật phụ, năm vị Phật mẫu, tám Bồ Tát nam và nữ và nhiều vị khác. Quán đảnh này ban sức mạnh để thiền định với chính thân này trong hình tướng của thân bổn tôn và một cách tuyệt đối sẽ dẫn chúng ta đến việc đạt được thân Hiển bày (Hóa thân).

Quán đảnh bí mật

Quán đảnh thứ hai, quán đảnh bí mật, liên quan đến khẩu, được truyền bởi rượu gia trì, thứ trở thành cam lồ (tiếng Tạng dutsi), chứa trong bát sọ người. Đệ tử uống vài giọt. Quán đảnh này tịnh hóa các che chướng và lỗi lầm về khẩu, ban sức mạnh để trì tụng thần chú của bổn tôn và cho phép người ta đạt được thân của kinh nghiệm hoàn hảo (Báo thân).

Quán đảnh trí tuệ

Quán đảnh thứ ba, quán đảnh trí tuệ, liên quan đến tâm, được trao truyền bởi một trí tuệ (tiếng Tạng rikma), tức là, một người phụ nữ trẻ, được vẽ, dành cho nghi lễ trên tấm thẻ nhỏ. Quán đảnh này tịnh hóa các lỗi lầm và che chướng liên quan đến tâm và ban sức mạnh để thiền định về sự hợp nhất của hỷ lạc và tính không, và đạt được thân tuyệt đối (Pháp thân).

Quán đảnh của khẩu cao quý

Quán đảnh thứ tư, quán đảnh của khẩu cao quý, không sử dụng các Pháp khí nghi lễ mà bao gồm một giới thiệu khẩu truyền đến kiểu tồn tại của tâm và mọi hiện tượng. Tác động của nó được đặt ở mức độ đồng thời – sự tịnh hóa đồng thời các lỗi lầm và che chướng của thân, khẩu và ý. Nó cũng cho phép thiền định đồng thời với thân là thân của bổn tôn, khẩu là thần chú của bổn tôn và ý là trạng thái định. Một cách tuyệt đối, nó dẫn đến sự chứng ngộ của thân tinh túy (Tự tính thân, tiếng Phạn svabhavakaya), sự hợp nhất của ba thân khác của Giác ngộ.

Để một quán đảnh có tác dụng thực sự, dĩ nhiên cần phải có các điều kiện bên ngoài nhất định. Vị lạt ma, người ban nó cũng cần có sự trao truyền chân chính và tiến hành nghi lễ chính xác, không thêm hay bớt thứ gì. Cuối cùng, đệ tử, những kẻ nhận nó cần có niềm tin trọn vẹn với vị lạt ma, một vài sự hiểu biết về quá trình và sự xác quyết về hiệu quả của nó.

Cách tiếp cận Kinh điển của Đại thừa và cách tiếp cận Mật điển của Kim Cương thừa dẫn đến cùng một mục tiêu, nhưng với lượng thời gian khác nhau. Người ta nói rằng hành giả cần thực hành ba vô lượng kiếp trước khi đạt đến Giác ngộ nhờ con đường Kinh thừa. Họ cũng nói rằng tối đa mười sáu đời là cần thiết để đạt được mục tiêu tương tự nhờ con đường Mật thừa. Về tối thiểu, nó khác biệt theo các bản văn. Một vài nói rằng trong sáu tháng, số khác nói sáu hay mười hai năm, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, Giác ngộ đều đặt được trong chính đời này.

Samye Ling, 3/1983

Trích: Đạo Phật bí mật, Kalu Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/09/2013(Xem: 9083)
Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.
04/09/2013(Xem: 5556)
Có nhiều người đi chùa nhưng họ đến để tìm một cái gì đó không liên quan đến việc tỉnh thức tâm linh. Người Tàu đến chùa cúng Phật rất nhiều, để cầu buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt hoặc xin xăm xin quẻ, nếu được quẻ tốt thì mừng cúng Phật nhiều, nếu gặp quẻ xấu thì buồn bã bỏ về. Ðến chùa khấn vái xin xỏ như thế thì chùa có khác gì đình miếu. Nhưng khổ nỗi chính những hạng "Phật tử" như thế mới giúp cho chùa khá giả
03/09/2013(Xem: 4102)
Phật pháp - ngôi nhà chung của nhân loại được dở bỏ, dựng thành những ngôi nhà nhỏ tự bao giờ? Thực tế ngôi nhà chung ấy còn, Thời mạt Pháp, Pháp không mạt. Chỉ là nó vô hình với ai vẫn còn chạy theo cuộc sống tạm bợ trần ai, và phải đợi đến lúc thân mạng tơ tướp không còn biết nương nhờ vào đâu mới chịu vào an ngụ.
03/09/2013(Xem: 3453)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt. Thanh niên là thích thực tế, ưa hoạt động nên không cần để ý đến.
01/09/2013(Xem: 3612)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ, nhận lấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin đó là “chánh tín”. Ngược lại, bày những điều mê hoặc làm mù quáng người đời, lừa bịp thế gian, ấy là “mê tín”. Hoặc không hiểu rõ, không có lý lẽ, mà tin càng tin bướng là “mê tín”. Tin bướng là họa hại đưa con người đến đường mù tối. Thấy rõ biết đúng mới tin là sức mạnh vô biên khiến người thành công trên mọi lãnh vực.
01/09/2013(Xem: 3401)
Mọi việc khổ vui trong kiếp hiện tại của chúng ta đều do nghiệp quá khứ và hiện tại chi phối. Nghiệp lành thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ, chúng ta chỉ biết sợ khổ, cầu vui mà không biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành. Thế chẳng khác nào kẻ sợ bóng mà cứ đứng ngoài trời nắng, muốn nghe nhạc mà bịt lỗ tai. Một khi nghiệp quả đến, chúng dù muốn dù không, tất nhiên cũng phải chịu. Bởi nó là kết quả do hành động của chính mình đã tạo. Mình làm, rồi mình chịu, đó là lẽ công bằng hợp lý của kiếp người.
01/09/2013(Xem: 10320)
Hôm nay, tôi sẽ nói đề tài: "Chỗ gặp gỡ và chỗ không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông". Phật giáo Việt Nam chúng ta có chia ra nhiều tông phái, nhưng xét kỹ thì có ba tông chính: Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông
27/08/2013(Xem: 7836)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị". Nhưng tôi có thể nói với các bạn, khi tôi gặp ngài lần đầu tiên năm năm trước rằng ngài hơn là một thầy tu giản dị rất nhiều. Tôi vẫn nhớ lần viếng thăm ấy bởi vì đấy là những thời khắc đáng ghi nhớ nhất trong đời tôi và khi tôi gặp những sinh viên chưa tốt nghiệp của chúng ta, họ nói, "Ô, ông đã từng gặp những lãnh tụ thế giới, ông đã từng gặp những tổng thống, ông đã từng gặp những Khôi nguyên Nobel Hòa Bình. Nhưng ai là người hấp dẫn nhất và ấn tượng nhất mà ông đã từng gặp?" Và tôi nói, đấy phải là việc gặp gở với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
23/08/2013(Xem: 10376)
Sau khì thành Đạo dưới cội Bổ Đề, Đức Phật vân du khắp nơi để diễn bày chân lý nhiệm mầu đến khắp nơi : "Cửa vô sinh bất diệt, đã mở cho tất cả chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe được hưởng trọn niềm tin tưởng"
23/08/2013(Xem: 5422)
Đức Phật nói rất nhiều vấn đề, Khoa học cũng đã chứng minh được nhiều vấn đề mà đức Phật đã nói cách nay trên 2550 năm; trong phạm vi giới hạn, bài này người viết chỉ đưa ra hai vấn đề đó là: 1. Tam tế tướng, 2. Tâm và vật, để xem Khoa học nói gì về hai vấn đề này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]