Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh niệm

17/06/201202:42(Xem: 3615)
Chánh niệm
lotus1

CHÁNH NIỆM
Henepola Gunaratana
Liên Thủy lược dịch

Thiền Quán còn gọi là Thiền Tuệ hay Thiền Minh Sát (tiếng Pali: Vipassana) đã được Đức Phật chỉ dạy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, là phương pháp thiền đặc biệt chú trọng vào việc giữ sự chánh niệm liên tục.

Chánh niệm, tiếng Anh là ‘Mindfulness’, tiếng Pali ‘Sati’.

Chánh niệm là một tiến trình vi tế mà bạn đang thực hiện ngay thời điểm hiện tại. Khi bạn nhận thức (biết được) một vật gì lần đầu tiên, khi ấy sẽ có một sự ý thức (biết) thuần tuý thoáng qua rất nhanh trước lúc bạn có khái niệm về vật đó, trước lúc bạn nhận dạng ra nó. Chính giai đoạn ý thức (biết) thuần tuý đang trôi chảy đó là Chánh niệm. Giai đoạn này rất ngắn, chỉ thoáng qua một phần rất nhỏ của giây trước khi mắt bạn tập trung nhìn vật ấy, trí bạn xem xét, cụ thể hoá, và phân biệt nó với những vật khác. Trong tiến trình nhận thức thông thường, giai đoạn Chánh niệm xảy ra rất nhanh và khó quan sát. Phần lớn chúng ta có thói quen để phí tâm vào các bước còn lại, tức tập trung nhận định, đặt tên, và miên man suy nghĩ để khái quát vật thể. Điều này làm cho Chánh niệm bị lãng quên vì sự xáo trộn đó. Chính Thiền Quán sẽ tập cho chúng ta phát triển Chánh niệm, giai đoạn ý thức thuần tuý.

Khi Chánh niệm được phát triển bằng phương pháp thích hợp, bạn sẽ thấy rằng kinh nghiệm sự chánh niệm của bạn ngày một thâm sâu, và bạn sẽ thay đổi cách nhìn đối với vạn vật. Một khi bạn biết phương pháp rồi, bạn sẽ thấy Chánh niệm có nhiều tính chất rất hay.

Các tính chất của Chánh niệm:

- Chánh niệm phản ánh những gì đang xảy ra và cách thức nó xảy ra một cách chính xác ở thời điểm hiện tại mà không có chút thành kiến nào xen vào.

Chánh niệm là sự quán sát không cần phán đoán. Đó là khả năng quán sát của tâm không kèm sự phê bình. Bằng khả năng này, hành giả sẽ nhìn thấy sự vật mà không qui kết hay đánh giá. Hành giả sẽ rất ngạc nhiên vì không có gì tồn tại cả, đơn thuần thấy các sự vật như chúng là vậy, theo bản chất thật của chúng. Hành giả không lựa chọn cũng không đánh giá, mà chỉ quan sát thôi. Sự quan sát không thiên vị, không lệch về khía cạnh nào và cũng không dích mắc với những gì được ý thức, nó chỉ là sự ý thức. Giữ Chánh niệm để không mê đắm cái tốt, không chạy theo sự mến chuộng, không chấp giữ những gì vừa ý, cũng không tránh né cái xấu hoặc lướt nhanh qua sự khó chịu. Chánh niệm thấy tất cả những gì trải qua đều như nhau, mọi ý nghĩ như nhau, mọi cảm xúc như nhau. Không có chi bị đè nén, không có chi bị ngăn chặn.

- Về phương diện tâm lý học, chúng ta không thể nào quan sát một cách khách quan những gì đang xảy ra bên trong chúng ta nếu ngay lúc đó chúng ta không chấp nhận sự hiện hữu của các trạng thái tâm khác nhau. Điều này đặc biệt đúng với các trạng thái không hài lòng của tâm. Để quán sát được nỗi sợ hãi của chính mình, chúng ta phải chấp nhận sự thật rằng chúng ta đang sợ. Chúng ta không thể nào xem xét được sự chán nản của chính mình nếu không hoàn toàn thừa nhận nó. Tương tự đối với sự cáu kỉnh, lo âu, thất vọng và các cảm giác khó chịu khác. Bạn không thể quán sát một điều gì hoàn hảo nếu bạn chối bỏ sự hiện hữu của nó. Dù kinh nghiệm điều gì đi nữa, Chánh niệm chỉ thừa nhận điều đó. Rất đơn giản, nếu một điều gì đang xảy ra trong cuộc sống thì chỉ cần bạn ý thức về nó mà thôi. Không tự cao, không tủi hổ, không có gì thuộc cá nhân đang bị đe doạ. Cái gì xảy đến thì xảy đến.

- Chánh niệm là sự ý thức không mang tính khái niệm. Một thuật ngữ khác của Chánh niệm là “sự chú ý đơn thuần”. Nó không phải là sự suy nghĩ, cũng không dính dáng gì với những ý nghĩ hay khái niệm; cũng không gắn với những ý niệm, ý kiến, hay trí nhớ. Chánh niệm chỉ nhìn xem. Chánh niệm ghi nhận những gì trải qua nhưng không so sánh chúng. Nó chỉ quán sát mọi thứ như thể chúng đang xảy ra lần đầu. Nó không phải là sự phân tích dựa trên sự ngẫm nghĩ và nhớ lại (các sự kiện đã qua), mà nó là kinh nghiệm trực tiếp điều gì đang xảy ra, không thông qua suy nghĩ. Chánh niệm đến TRƯỚC suy nghĩ trong tiến trình nhận thức.

- Chánh niệm là sự ý thức ngay thời điểm hiện tại. Nó xảy ra tại đây và ngay bây giờ. Nó là sự quán sát những gì đang xảy ra ngay lúc này, ngay hiện tại. Bao giờ Chánh niệm cũng trụ ngay hiện tại. Nếu bạn đang nhớ về thầy/cô giáo lớp 2 của mình, đó là trí nhớ. Sau đó, khi bạn ý thúc được mình đang nhớ thầy/cô giáo lớp 2, đó là Chánh niệm. Kế đến, nếu bạn khái quát tiến trình tâm đó và nói với chính mình rằng: ‘Ồ! Tôi đang nhớ’ thì đó là suy nghĩ.

- Chánh niệm là một sự tỉnh giác không có bản ngã. Nó xảy ra không dính gì đến bản ngã. Bằng Chánh niệm, hành giả thấy được tất cả các hiện tượng không liên quan gì đến khái niệm ‘tôi’, ‘của tôi’, ‘cái của tôi’. Ví dụ, giả sử bạn bị đau chân trái. Thông thường, bạn nói rằng ‘Tôi bị đau’. Khi sử dụng Chánh niệm, bạn chỉ đơn thuần ghi nhận cảm giác đau đó chỉ là một cảm giác mà thôi. Bạn sẽ không cộng thêm khái niệm ‘tôi’ vào. Chánh niệm ngăn không cho bạn thêm vào hay giảm đi bất cứ cái gì từ sự nhận thức. Bạn không làm nổi bật, không nhấn mạnh cái gì cả. Bạn chỉ quán sát cái đang hiện hữu chứ không làm méo mó đi.

- Chánh niệm là sự ý thức không kèm mục đích. Trong Chánh niệm, bạn không ráng sức vì mong đợi các kết quả. Bạn không cố gắng để hoàn tất một điều gì cả. Khi có Chánh niệm, bạn kinh nghiệm được thực tại hiện tiền dù bất cứ hình thức gì. Không có gì để bạn giành được. Chỉ mỗi việc quán sát mà thôi.

- Chánh niệm là sự ý thức về những đổi thay. Nó quán sát dòng chảy qua của sự trải nghiệm. Nó theo dõi sự vật đang chuyển đổi. Nó thấy sự sanh ra, lớn lên, rồi trưởng thành của tất cả các hiện tượng. Nó nhìn xem sự già nua và chết đi. Chánh niệm theo dõi liên tục trong từng sát-na. Nó quán sát tất cả mọi hiện tượng – vật chất, tinh thần hoặc cảm xúc hay bất kỳ cái gì đang diễn ra trong tâm. Hành giả chỉ ngồi lại và xem buổi biểu diễn đó. Chánh niệm là sự quán sát tính chất cơ bản của mỗi hiện tượng đang trôi qua. Nó theo dõi hiện tượng đó khởi sinh và biến mất. Nó thấy hiện tượng đó làm chúng ta cảm giác ra sao và phản ứng lại thế nào. Nó xem cách thức gây ảnh hưởng đối với các hiện tượng khác. Trong Chánh niệm, hành giả là quan sát viên có công việc duy nhất là theo dõi sự biến chuyển đang diễn ra liên tục của thế giới bên trong. Hãy lưu ý điểm này. Trong Chánh niệm, hành giả chỉ quan sát thế giới bên trong, đừng để ý thế giới bên ngoài. Mọi thứ vẫn ở đấy, nhưng trong thiền tập, phạm vi của hành giả là những trải nghiệm của chính mình, suy nghĩ của chính mình, cảm giác của chính mình, và nhận thức của chính mình. Hành giả cũng chính là phòng thí nghiệm của mình. Thế giới bên trong có một lượng thông tin khổng lồ bao gồm sự phản ánh về thế giới bên ngoài và còn nhiều hơn nữa. Sự khảo sát nguồn tài liệu (thông tin) này sẽ dẫn đến tự do hoàn toàn.

- Chánh niệm là sự quán sát tự thân. Hành giả vừa là người trong cuộc vừa là người quán sát. Nếu xem xét các cảm giác sinh lý, hành giả cũng đồng thời cảm nhận được chúng. Chánh niệm không phải là kiến thức duy lý trí. Nó chỉ là sự ý thức mà thôi. Chánh niệm mang tính khách quan, nhưng nó không lạnh lùng cũng không phải không có cảm giác. Nó là sự trải nghiệm tỉnh táo trong cuộc đời, một sự tham gia cảnh giác đối với quá trình sống đang diễn ra.

(Nguyệt san Giác Ngộ 172)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2015(Xem: 8503)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 13978)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 5724)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5184)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 4565)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9061)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5229)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
08/01/2015(Xem: 8323)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
26/12/2014(Xem: 6746)
Đức Phật dạy rằng nếu đem Đạo Pháp của Ngài đặt vào con tim của một người bình dị thì nhất định là nó sẽ bị biến dạng (saddhamma-patirupa; sad có nghĩa là đúng đắn, dhamma có nghĩa là Đạo Pháp, patipura có nghĩa là lệch lạc, do đó có thể hiểu các chữ saddhamman-patirupa là "Đạo Pháp đúng đắn không bị lệch lạc" hay bóp méo). Trái lại nếu đặt nó vào con tim của một Người Cao Quý (Kalyanamitta) (Kalyanamitta là một từ ghép; kalyana: đạo đức, nhân ái; mitta: bạn hữu, do đó có thể hiểu từ ghép này là "một người bạn đạo hạnh" hay một "người đồng hành đạo đức". Kinh sách bằng các ngôn ngữ Tây Phương thường dịch là Être Noble/Noble One. Kinh sách gốc Hán ngữ dịch là thiện trí thức/shàn zhīshì 善知識, thiết nghĩ cách dịch này không được thích nghi lắm bởi vì ngày nay rất khó hình dung ra những người "thiện trí thức" là những thành phần nào trong xã hội) thì nó sẽ trở nên tinh khiết, và sẽ không bao giờ phai mờ hay u tối.
11/12/2014(Xem: 5786)
Một thời là chữ bắt đầu của kinh Phật: “Một thời Phật tại nước Xá-vệ..”, “Một thời Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ-xà-quật…” (tạng Hán Bắc tông). “Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường…”, “Một thời Thế Tôn đang ở thành…”(tạng Pali Nam tông).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567