Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bến duyên lành con đường tìm về hạnh phúc nhân sinh - Thích Đạt Ma Phổ Giác

31/03/201219:10(Xem: 2824)
Bến duyên lành con đường tìm về hạnh phúc nhân sinh - Thích Đạt Ma Phổ Giác

nuc cuoi duc phat

Bến duyên lành
con đường tìm về hạnh phúc nhân sinh
Thích Đạt Ma Phổ Giác

“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai chạy...

Quãng đời nghiệp chướng

Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.

Khi được sinh ra, tôi đã mang theo thân xác bé nhỏ của mình chứng “đau ban khỉ”. Nếu chẳng nhờ vào phước đức của mẹ và lương y chữa trị, thì giờ đây tôi đã là một nấm mồ hoang xanh rêu, tốt cỏ tự lâu rồi.

Lớn lên một chút, tập nhiễm những thói hư tật xấu do môi trường sống mang lại. Tôi đã lao vào cuộc trác táng, tranh đua, danh lợi, ái tình. Tôi bản lãnh đến nỗi tự tử mấy lần! Lần đầu nhờ bạn bè cứu sống, lần sau chính nhờ mẹ mà tôi được hoàn sinh theo đúng nghĩa của từ này.

Người ta thường nói: “Ngựa chứng” là ngựa hay, câu nói này chính xác đến độ nào? Riêng bản thân tôi thì “Ngựa chứng” là “Ngựa chứng” mà thôi.

Tôi nhớ rất rõ, cái thuở sa đà, tôi thường chửi cha mắng mẹ, xem thường tất cả mọi người, làm khổ lụy đến nhiều người thân và ân nhân của mình. Hay đâu chẳng thấy, nhìn lại toàn bộ chỉ là gây tạo nghiệp chướng.

Cha tôi bảo:

- Nếu tao không lo chữa bệnh, thì mày đã chết từ hồi nhỏ rồi.

Tôi liền trả đũa:

- Tại ông đam mê nhục dục mới có tôi, ông phải có trách nhiệm nuôi nấng và lo lắng cho tôi.

Nghe vậy, mẹ tôi lại khuyên:

- Con có gia đình rồi phải lo tu tỉnh làm ăn, chứ có đâu tụm năm, tụm ba cờ bạc, rượu chè, hút xách, giựt dọc hoài của người ta. Coi sao được.

Tôi lại trả treo:

- Ai có thân nấy lo, bà khỏi lo cho tôi. Tôi lớn rồi để tôi tự lo.

Tự lo đâu chẳng thấy, cho đến khi xuất gia đầu Phật, mẹ vẫn mỗi tháng ra thiền viện thăm tôi và còn cho tiền để mua kinh sách và làm các việc phước thiện. Bởi bà sợ tôi không chịu tu mà bỏ ra ngoài sinh sống.

Ý tưởng xuất gia ban đầu của tôi không phải vì mục đích chân chánh, chỉ vì bất đắc dĩ phải chọn lựa một trong hai, tự tử hay xuất gia.

Thất chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghiện ngập, si vạy, sống không biết ngày mai, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình… với quan niệm “chết là hết, sống không hưởng thụ chết làm ma ngáp ruồi”. Bởi quan niệm sai lầm đó đã giết chết hơn nửa đời người của tôi. Rồi điều gì đã giúp cho tôi làm mới cuộc đời?

Nhờ mẹ tôi biết đường tu

Nếu không có mẹ tôi giờ ra sao?

Bao la tình mẹ

Tình thương của mẹ đối với tôi thật vô cùng cao cả. Tôi không thể nào lấy ngôn ngữ, bút mực để diễn tả cho hết. Tôi chỉ thầm nhận, hứa nguyện tu hành đến nơi, đến chốn để mong đền trả công ơn mẹ.

Trong cuộc đời này, tôi không thể tìm được người mẹ nào như người mẹ sinh ra tôi. Bà phải rời quê hương Thái Bình vào Nam trong một hoàn cảnh đặc biệt, xa cha mẹ họ hàng từ tấm bé. Không có điều kiện đến trường nên bà phải chịu thất học, chỉ biết từ làm mướn đến mua gánh bán bưng. Lớn lên gặp cha tôi rồi sinh ra tám mặt con. Từ vai trò người nội trợ, mẹ tôi phải kiêm luôn trụ cột gia đình kể từ khi cha tôi bị bắt buộc đi lính.

Lúc này tôi đã sa đà quá mức, bệnh hoạn nghiện ngập, mất phương hướng, nợ nần chồng chất không khả năng chi trả, bế tắc đau khổ tột cùng, không còn lối thoát, đến mức chỉ muốn tự tử. Về thăm mẹ lần cuối, nghe bà khuyên đi tu tôi vẫn quen thói biện bác hằn học. Tuy nhiên, vật cùng tắc biến, trong phút giây ấy lời của mẹ như một dòng suối ngọt ngào êm dịu, nhiệm mầu len lỏi vào tâm thức làm tôi xiêu lòng mà không hay.

Thay vì chọn cái chết, tôi chấp nhận đi tu. Những tưởng như vậy cho xong chuyện. Nhưng không ngờ từ đó, nhờ tấm lòng hộ trì của mẹ, sự kiên trì dần dần được bồi đắp trong tôi. Tôi đã thực hiện thời gian tự tu, tự cai nghiện. Tuy vất vả nhưng thành công ngoài sức tưởng tượng.

Nguồn chân lý sống

Qua cơn mưa trời lại sáng. Tôi đã chiến thắng chính mình vượt qua hiểm nghèo và quyết định đầu Phật xuất gia.

Vừa bước chân vào cổng thiền viện Thường Chiếu, tự nhiên tôi thấy thân tâm đầy phúc lạc, thầm phát nguyện phải tu cho đến khi đắc quả. Dù có ai bù cho tôi hàng triệu cây vàng để ra đời lấy vợ đẹp tôi vẫn cương quyết từ chối để tu hành. Nhờ đó, tôi đã đi vững vàng từng bước từ thành công này đến thành công khác.

Thiền viện Thường Chiếu là nơi khai sáng tinh thần cho tôi. Với cái nhìn chính chắn, rõ biết mọi nguyên nhân sai biệt trong cuộc đời. Tất cả đều do chính mình tạo ra và nhận lấy. Mọi thứ đều có thể tự mình thay đổi. Nếu nói số phận đều được áp đặt cố định, thì giờ này tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.

Nếu không có được mẹ hiền

Đời tôi giờ đã ra miền bụi tro.

Nhờ mẹ mà tôi biết được tu hành. Thế mà gần bảy mươi tuổi, mẹ tôi vẫn còn bán cháo sinh nhai. Nhớ lại trong kinh Bổn Sự đức Phật có dạy: “Giả sử có người một vai cõng cha, một vai cõng mẹ suốt đời không bao giờ dừng nghỉ, lại cung cấp cho cha mẹ đầy đủ thức ăn, vật dụng, thuốc thang đến trăm ngàn kiếp vẫn chưa đáp đền được ân đức cha mẹ”.

Ngài lại nói, nếu khuyên được cha mẹ giữ năm giới thì có thể báo hiếu được. Vì giữ được giới, thì sẽ an vui hạnh phúc không có vật chất nào đánh đổi được. Còn nếu khuyên cha mẹ xuất gia là một cách báo hiếu cao cả vẹn toàn nhất.

Nói đến đây tôi cảm thấy hổ thẹn, bùi ngùi đối với công ơn của mẹ. Mãi đến khi tu học được 9 năm, tôi mới khuyên mẹ xuất gia cùng tu học tại thiền viện Thường Chiếu.

Theo lời dạy của đức Từ Phụ, ai sinh thời không có Phật ra đời, thì cha mẹ là hai vị Phật hiện tiền lúc nào cũng kề cận bên ta. Ơn này không lấy gì có thể đáp đền, chỉ có cách duy nhất là tu hành đến thành Phật mới có thể trả hết công ơn đã thọ nhận.

Ơn Mẹ
Mới hôm nào còn bé
Giờ con kề năm mươi
Bao lần con mong đợi
Để đền đáp ơn người.
Con tu là nhờ mẹ
Cả cuộc đời thương con
Không quản ngại thân gầy
Công ơn này khó đáp.
Mẹ là ánh trăng soi
Xóa tan bao trần lụy
Mẹ cho con tất cả
Bình yên tận cõi lòng.

Ơn cha mẹ đã khó đền đáp, lại thêm ơn thầy, tổ, bạn lành giúp cho ta biết được điều hay, lẽ phải, đạo đức làm người. Vì thế: “Cha mẹ làm nên thân, dưỡng nuôi lo vật chất, thầy tổ giúp tinh thần, an vui trong tỉnh thức.”

Cha mẹ và thầy tổ
Ơn sâu khó đáp đền
Biết ơn và đền ơn
Lời Phật dạy không sai.
Rửa nghiệp lột xác

Cha mẹ và thầy tổ đã giúp cho ta làm mới chính mình, để làm người có nhân cách. Thay hình đổi dạng gọi là lột xác, lột bỏ đi những gì cấu uế, nhiễm ô, thay thế vào những gì trong sạch, để hòa mình vào cộng đồng xã hội, hầu đem lại lợi ích cho tha nhân.

Lột xác ở đây chủ yếu là thay đổi tâm thức thành tâm tuệ giác để có cách nhìn thông thoáng hơn, bao dung và tha thứ, hiểu biết và thương yêu, dấn thân và phục vụ, lợi ích vì mọi người.

Không thể cầu trời Phật
Hay thần linh thượng đế
Nếu tự mình vấp ngã
Thì chính mình đứng lên.

Do đó, nói đến lột xác, chúng ta phải hiểu không phải lột da xẻ thịt mà lột bỏ đi những kiến chấp, thành trì cố hữu, nhận định sai lầm, thiển cận. Chúng ta phải có thời gian để quán xét lại chính mình. Nhờ đó trí tuệ được phát sanh. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng sự vận hành vũ trụ theo tiến trình diễn biến của nhân quả.

Rời xa môi trường đời, tôi sống trong môi trường đạo thì những thói quen cũ lần lần được gột tẩy. Tôi gọi quá trình làm mới này là rửa nghiệp và phát tâm, phát nguyện chỉ làm điều gì không tổn hại cho mình và người, nhờ thế thân tâm ngày càng phúc lạc như trong kinh Pháp Cú nói:

Không làm các việc ác,
Hay làm các việc lành.
Giữ tâm không phiền não,
Vì lợi ích muôn loài.

Tôi còn nhớ thời trước, mỗi lần bị hiếp đáp là tôi tìm mọi cách để trả thù, sao cho kẻ ấy ít ra cũng bị ê chề như tôi từng gánh chịu. Giờ đây, ý niệm trả thù chỉ thoáng qua trong tâm thức. Mỗi lần như thế, tôi thường dùng pháp quán “báo oán hạnh” để cho ý niệm trả thù trôi theo dòng tâm thức, dần dần mất hút như gió ngàn bay xa.

“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai chạy. Nay gặp quả xấu, chuyện chẳng hài lòng, nỗi khổ, niềm đau, buồn, thương, giận, ghét… Vậy thì bụng làm dạ chịu chứ đổ thừa ai đây. Vui vẻ mà đón nhận khổ đau, hoan hỷ mà ôm đón nghịch cảnh. Mọi việc rồi cũng sẽ qua!

Gọi là “lột xác” cho nó kêu thôi, thật ra là đổi tâm mình vậy. Đổi tâm từ trạng thái xấu sang trạng thái tốt bằng các phương pháp trong giáo lý nhà Phật. Trong đó có pháp “báo oán hạnh”.

Lấy hận thù diệt hận thù
Hận thù càng thêm chồng chất
Lấy tình thương xóa hận thù
Bao nhiêu oan nghiệt nhiều đời tiêu tan.

(CÙNG TÁC GIẢ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2019(Xem: 4932)
Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng, giá trị cốt lõi của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay,hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướngtìm về sự thật, mộtgiải pháp cứu cánh, rốt ráo, an toànvì ‘hòa bình bền vững’, xã hội trật tự vàngày ngày an lành ... Hòa chungtrách nhiệm, bản hoài, thông điệp : ‘Chân lý chỉ có một’,[1]đồng nghĩa với ‘Sự lãnh đạo bằng chánh niệm’ qua cách tiếp cận của Phật giáo, mang vạn niềm vui đến với muôn loài. Thật vậy, Phật giáo với trọng trách mang ‘an vui lâu dài’, là nội dung cốt lõi của xã hội nhân loại, cũng là tiền đề cho một xã hội bền vững;trong đó mỗi cá thể cần củng cố,xây dựngnội tâmkiên cố dựa trên phương cách lãnh đạo bằng‘chánh niệm’, đểcùng nhìn lại, quán chiếu và cùng dẫn đến trách nhiệm sẻ chia …
29/06/2019(Xem: 6961)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 3723)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7054)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4181)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 8564)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 3866)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
18/10/2018(Xem: 3765)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 7272)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 6812)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567