Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Qua sông rồi, chớ đội bè

06/10/201421:13(Xem: 5010)
Qua sông rồi, chớ đội bè
 
 

chiec be











Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn. 

 

Khi thực tiễn thay đổi, các hệ thống phương pháp cũ trở thành không còn thích hợp nữa. Vai trò chuyên chở của chúng đã mất. Tuy nhiên, do quán tính của nhận thức, con người ta vẫn thường bám níu vào những điều cũ kỹ. Trong lĩnh vực quan hệ giữa người với người, sự biết ơn, nhớ ơn là điều cần được duy trì, cổ vũ. Trong lĩnh vực nhận thức thì khác hơn, giống như đứa trẻ lên mười không thể mặc cái áo cho trẻ lên ba, những nhận thức, những hệ thống không phù hợp với thực tại cần phải được bỏ đi. 

 

Điều này được nhắc đi nhắc lại vô số lần trong các văn bản Phật giáo. Con người cần phải hủy bỏ các quán tính, nhận thức, cần phải phá chấp. Đức Phật giảng thích (Kinh Ví dụ con rắn, Trung bộ 1 – trang 305): Này các Ty-kheo ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Người đó suy nghĩ: “Đây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm vàhãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cây cầu bắc qua từ bờ này tới bờ kia. Nay ta thu góp cỏ, cây, nhành, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này nỗ lực vượt qua đến bờ bên kia an toàn”. 

 

Khi qua bờ bên kia rồi, người ấy suy nghĩ: “chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ nó mà ta qua sông được. Bây giờ ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai và đi đến nơi nào ta muốn”. Này các Tỳ-kheo các ông nghĩ thế nào? Người ấy làm như vậy có đúng với chức năng của chiếc bè hay không?

– Thưa không.
– Người đó phải làm thế nào cho đúng với chức năng của chiếc bè? Này các Tỳ-kheo, người ấy sau khi sang được bờ bên kia nên suy nghĩ hợp lý như sau: “chiếc bè này có lợi ích cho ta, nhờ nó mà ta vượt qua được bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên bờ đất khô hay nhận chìm xuống nước và đi đến nơi nào ta muốn”.
(Kinh Ví dụ con rắn)

Nếu đội bè mà đi thì không thấy được bầu trời cao rộng. Nhà sử học Tư Mã Thiên, trong tâm sự buồn, cũng ví mình như người đội chậu. Nếu đội chậu không thấy được mặt trời thì khi đội bè ắt tệ hơn. Con người cần phải tránh tình trạng tự nguyện đội bè, phải làm chấm dứt các ám ảnh suy luận để có thể nhìn rõ thực tiễn và không bị giới hạn trong phương pháp giải quyết. Vì thế, cần có:
Quy tắc bỏ bè: Các kiến thức, kinh nghiệm, lý thuyết, truyền thống, đạo đức… chỉ nên sử dụng theo nguyên lý chọn lựa: điều gì làm tăng trưởng điều xấu, giảm thiểu điều tốt thì phải bỏ đi.

Quy tắc trên được phát biểu theo dạng phủ định. Nếu phát biểu theo dạng khẳng định thì quy tắc này phát biểu như sau: Có thể hủy bỏ các quy trình, hệ thống cũ, có thể sử dụng các giải pháp không truyền thống để giải quyết vấn đề nhằm tạo ra kết quả đúng tốt. Quy tắc này nhằm huỷ bỏ các sự hạn chế của các thủ tục quy trình hiện hành nếu có cách làm khác đúng tốt hơn. Nó nhằm tránh các loại quán tính về nhận thức. 

 

Trong Phương pháp luận sáng tạo TRIZ, có một số nguyên tắc thể hiện điều này. Chẳng hạn nguyên tắc phản đối xứng: chuyển đối tượng có hình dạng đối xứng thành không đối xứng, những đối tượng không đối xứng thì làm tăng độ không đối xứng. Một nguyên tắc khác là nguyên tắc linh động: thay đổi các đặc trưng của đối tượng hay môi trường bên ngoài, phân chia đối tượng thành nhiều phần có khả năng dịch chuyển, làm cho các đối tượng bất động có thể di chuyển được. 

 

Một nguyên tắc tương tự là nguyên tắc chuyển sang chiều khác: những khó khăn do chuyển động (hay sắp xếp) đối tượng theo theo đường (một chiều) có thể sẽ không còn nếu cho đối tượng di chuyển trong một mặt phẳng hay trong không gian… quy tắc này cần được áp dụng cho người lớn tuổi, những người có quá nhiều kinh nghiệm. Các câu nói thông thường là: hồi xưa thì khác, chưa bao giờ thấy ai làm như vậy v.v… Chính là thể hiện của trạng thái quán tính nhận thức, quy tắc bỏ bè trả lời cho những lập luận đó.

Một trong những cách để xoá bỏ quán tính cũ là phương pháp tìm kiếm những điều bất thường (nguồn Peak Learning, Ronald Gross): những điều sai khác đặc biệt mà ta không hiểu được. Theo Phật học, các diễn biến của thực tại bao giờ cũng ra ngoài các suy nghĩ dự đoán và có vô số điều mà ta chưa bao giờ biết. Vì thế, đối với Phật học, mọi cái đang diễn ra đều là bất thường. Một số các kỹ năng để thấy được điều bất thường đã được phát biểu (theo Schank, nguồn: Peak Learning):

- Thấy lạ trông quen: món ăn Việt khác món ăn Thái chỗ nào? Chương trình ti vi đó làm tôi thích bằng cách nào?

- Đưa ra biến thể của sự việc: Điều gì xảy ra nếu món Thái nấu theo kiểu Việt? Tôi thích điều gì trong chương trình ti vi đó?

- Để qua một bên các giải thích quen thuộc: Tìm một cách giải thích khác với suy luận theo thói quen hay theo số đông vì các suy luận đó có thể sai.

- Để qua một bên các quy tắc quen thuộc: Bằng cách này ta có cơ hội để xem xét vấn đề theo con mắt mới mẻ hơn

- Đóng vai người khác: Tưởng tượng mình là người Thái (mặc dù mình là người Việt), tưởng tượng mình là người bị hại (mặc dù mình không là người bị hại), tưởng tượng mình là thầy giáo (mặc dù không phải là thầy giáo) có nhiệm vụ giải thích cho học sinh (mặc dù người nghe giải thích không phải là học sinh).

Trong hệ thống Kaizen của Nhật Bản quy tắc bỏ bè được áp dụng trong sự thay đổi các thủ tục, quy trình cũ, loại bỏ các thủ tục, quy trình không cần thiết mà vẫn được đảm bảo kết quả tốt và được thực hiện bởi các nhân viên trực tiếp làm việc. Quá trình cải tiến này có thể gọi là quá trình làm tắc có chủ đích, làm tắt một cách có trách nhiệm. Như thế, người lao động được phân quyền cải tiến trong khu vực làm việc của họ. 
Điều này trái với hệ thống quản trị theo kiểu cơ giới, trong đó người lao động chỉ được làm theo các thủ tục được chỉ định, nếu vi phạm sẽ bị khiển trách. 

 

Đối với quan điểm của những người thực hiện Kaizen, những cải tiến (nhỏ và liên tục) chính là sự phá vỡ các thủ tục quy trình cũ. Do đó, Kaizen được xem là “sự nổi loạn chống lại quá khứ”. Với cách quản trị cơ giới, loại “nổi loạn” này không được chấp nhận. Người quản lý sẽ bảo rằng: “anh hãy lo làm theo quy trình, đừng cải lý, quy trình là cái bè mà anh cần phải đội, thay đổi là nhiệm vụ của cấp trên”. Cải tiến trong hệ thống Kaizen cũng được xem như là “lời tự thú”. Đó là sự tự thú rằng các quy trình cũ còn có khiếm khuyết, thậm chí là sai lầm, vì có khiếm khuyết, sai lầm mới cần phải cải tiến. Tuy nhiên, thà rằng ta chịu ấy náy mà thừa nhận sai lầm rồi cải tiến còn hơn là chịu đội cái bè khiếm khuyết ấy và làm giảm sức cạnh tranh của mình trong thời đại cạnh tranh khốc liệt này.


Quan điểm của Kaizen về “nổi loạn” và “tự thú” bằng các cải tiến đã được trình bày trong một đoạn thuyết giảng khác của đức Phật (VII, Phẩm lớn, 65, Tăng chi bộ kinh 1, trang 338). Quy tắc bỏ bè được trình bày như sau:

"Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kho tàng kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì đó là bậc thầy của mình. 

Này các Kàlàmà, khi nào các người tự mình biết rõ như sau: “các hành vi này là sai xấu, các hành vi này là có tội, các hành vi này bị người có trí chỉ trích, các hành vi này nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau”, thì này các Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng… vị nào rèn luyện suy nghĩ xa lìa tham lam, tức giận, ngu muội… với suy nghĩ không oán hận như vậy, không tức giận như vậy, không dơ bẩn ô nhiễm như vậy, trong sạch như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được một trong bốn suy nghĩ an ủi như sau 

 

– Nếu có đời sau, nếu có kết quả biến dị của các động lực nội sinh đúng tốt, sai xấu, thì sau khi thân thể tan rả, mạng sống kết thúc, ta sẽ sanh vào nơi đúng tốt, cõi trời, cõi đời này. Đấy là an ủi thứ nhất. 

 

– Nếu không có đời sau, không có kết quả biến dị của các động lực nội sinh đúng tốt, sai xấu, thì ở đây, ngay trong hiện tại, ta cũng được sống với suy nghĩ không oán hận, không phiền não, được yên ổn sung sướng. Đấy là an ủi thứ hai. 

 

– Nếu việc sai xấu ta có làm, nhưng ta không có suy nghĩ ác với ai cả, và nếu ta không làm điều ác thì làm sao ta có thể cảm nhận khổ đau được. Đấy là an ủi thứ ba. 

 

– Nếu việc sai xấu ta không có làm, thì về cả hai phương diện cố ý hay vô ý, ta quan sát thấy ta hoàn toàn trong sạch. Đấy là an ủi thứ tư.”

 

(VII, Phẩm lớn, 65, Tăng chi bộ kinh 1, tr. 338).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/04/2017(Xem: 9809)
Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả. Kinh Kamala được đức Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kêsaputa của sắc dân Kalama thuộc nước Kôsala.
22/04/2017(Xem: 5218)
Phật tử Chùa Thiên Khánh hỏi : 6-Hai người cùng tu tập như nhau, nhưng một người hay giúp đỡ và một người không? Vậy phước có đồng nhau không? Xin thầy chỉ dạy. Thầy trả lời : Câu hỏi này rất hay và có giá trị. Hai người cùng làm một công việc trong một thời điểm và có tài sức ngang nhau, thế nhưng có người thành công và có người thất bại. Đối với những người không thành công, họ hay tự an ủi mình rằng số mình chưa đến hoặc họ đổ thừa tại bị thì là…. Nhưng ít ai biết rằng tất cả nên hư, thành bại, tốt xấu đều do mình tạo ra trong quá khứ hoặc hiện tại
17/04/2017(Xem: 4871)
Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.
25/03/2017(Xem: 6618)
Còn nhớ nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, mỗi khi có tác phẩm nào nội dung liên quan đến Phật giáo thì phía bộ phận quản lý đều yêu cầu tác giả hoặc nhà xuất bản phải trình qua phía văn hóa, hoằng pháp Phật giáo để có phê duyệt rõ ràng, thì mới được cấp giấy phép thực hiện và phát hành rộng rãi. Quy định chặt chẽ ấy đã giúp và hỗ trợ Phật giáo rất nhiều trong việc hạn chế được những sai phạm vô tình hay hữu ý hiểu sai về Phật giáo. Việc làm tích cực này hiện nay đã không còn thấy nữa. Vì vậy từ khi thấy có xuất hiện quyển sách "Tranh Nhân Quả" do Sư Thầy Thích Chân Quang biên soạn
19/03/2017(Xem: 6676)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn quyển sách nhỏ này, nhằm hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia tập sống cuộc đời thánh thiện, theo lời Phật dạy. Chúng tôi cố gắng trình bày các nguyên tắc này theo sự hiểu biết có giới hạn của mình, sau một thời gian ứng dụng tu học cảm thấy có chút an lạc. Để giúp cho người cư sĩ tại gia thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình người thân và cộng đồng xã hội. Trước tiên, chúng ta cần phải có một niềm tin vững chắc sau khi học hỏi, có tư duy sâu sắc, có quán chiếu chiêm nghiệm như lời Phật dạy sau đây: Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài,
19/03/2017(Xem: 6293)
Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả. Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?” Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”
17/03/2017(Xem: 6099)
1-Người Phật tử, phải thắng sự lười biếng bởi thái độ ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác mà cầu khẩn van xin để đánh mất chính mình. 2-Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nổ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa khi mọi việc chưa được tốt đẹp để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực. 3-Người Phật tử chân chính, cương quyết phải thắng sự thiếu quyết tâm khi muốn làm việc thiện vì đó là trách nhiệm và bổn phận của người có lòng từ bi hỷ xả.
16/03/2017(Xem: 6175)
1-Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc. 2-Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ nhờ nghe và biết chiêm nghiệm để rồi tu sửa. 3-Người Phật tử dù thắng trăm vạn quân cũng không bằng chiến thắng những thói hư tật xấu của mình, đó là chiến công oanh liệt nhất mà người đời ít ai làm được. 4-Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình, nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
14/03/2017(Xem: 5342)
Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta Có mẹ có cha, giống như mọi người. Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài. Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.
26/02/2017(Xem: 11125)
“Tâm” là một trong những từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống thường nhật (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình… với biết bao nổi niềm vui buồn, thương ghét…) cũng như cũng rất phổ thông, phổ dụng trong đạo Phật . Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm. Nhưng “Tâm là gì ? Tâm ở đâu ? Tu tâm là tu như thế nào ..lại là các điều cần được nắm vững. Ngoài ra lại có khá nhiều từ ngữ có liên hệ rất mật thiết với chữ “Tâm” như các chữ Tánh, Thức, Ý, Ý Thức, Tình Cảm, Xúc Cảm, Tư Duy, Lo Nghĩ, … Điều này khiến người học Phật khó tránh khỏi những hoang mang, mờ mịt, ngờ vực vì khó có thể phân định chuẩn xác được các phạm trù về ý nghĩa của chữ “Tâm” trong đạo Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567