Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 3

26/04/201311:43(Xem: 2831)
Phần 3

VẤN ĐÁP THIỀN VÀ PHẬT PHÁP

HT Thích Duy Lực giải đáp

TT. Thích Đồng Thườngghi thành văn tự

Phần 3

Hỏi:

Trong câu duy tâm sở hiện và nhất thiết duy tâm tạo, chữ tâm đó vừa là chân tâm cũng là vọng tâm phải không?

Đáp:

Nói “duy tâm”, tâm này là vọng tâm cũng là tác dụng của bộ óc. “Nhất thiết duy tạo” đều là do bộ óc nhận thức sai lầm, mới có hiện tượng thế giới vũ trụ vạn vật này. Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, không có già chết làm sao có già chết hết, già chết hết là Niết bàn; vô minh vốn không có làm sao hết vô minh, hết vô minh thành Phật. Phật nói không có sanh tử, nhưng thấy sanh tử rõ ràng, người nào cũng có sanh tử. Tại sao Phật nói không có sanh tử? Vậy Phật nói gạt mình sao! Vì sanh tử đó là do vọng tâm hoạt động mới có.

Như thân mình xoay phải thấy căn nhà xoay, tâm mình hoạt động phải thấy sanh tử luân hồi; muốn căn nhà ngưng xoay thì thân ngưng xoay, muốn sanh tử không còn thì tâm ngưng hoạt động. Tâm hoạt động ban đêm tạo ra cảnh nhắm mắt chiêm bao, trong Duy thức gọi là độc đầu Duy thức biến hiện. Một mình ý thức biến hiện ra nhắm mắt chiêm bao.

Ban đêm ngủ, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân (ngũ căn), 5 thức này ngưng hoạt động, chỉ có một mình thức thứ 6 hoạt động biến ra cảnh nhắm mắt chiêm bao. Cho nên mình ngủ trong phòng mà không thấy đồ vật trong phòng, nhưng thấy xa thấy Việt Nam, bên Tây, bên Tàu… đó gọi là pháp trần. Đối với ngũ căn gọi là tiền trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc). Lúc ngũ căn trước ngưng hoạt động thì ngũ trần trước không thấy được, chỉ là thấy pháp trần; tức là thấy ở xa, thấy quá khứ, thấy vị lai. Như chứng quả A la hán thấy được 80 muôn kiếp trước và 80 muôn kiếp sau đều do tâm mình. Tâm mình hoạt động tự nhiên thấy có sanh tử luân hồi.

Mở mắt chiêm bao gọi là đồng thời ý thức biến hiện. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, 5 thức này hoạt động bình thường và thức thứ 6 cùng hoạt động. Nhĩ thức nghe tiếng nhưng nhĩ thức không phân biệt tiếng người lớn, tiếng con nít, tiếng đàn ông, tiếng đàn bà…, phải có thức thứ 6 đồng thời nổi lên, mới phân biệt tiếng đàn ông, tiếng đàn bà… được rõ ràng. Nếu chỉ có thức thứ 6 không nghe được tiếng thì lấy gì để phân biệt. Cho nên, phải hai thức hợp tác đồng thời nổi lên biến hiện ra mở mắt chiêm bao.

Do vọng tâm biến hiện, tức là bộ óc nhận biết sai lầm mới có. Như mình thấy một bức tranh đẹp, thấy có cao thấp rõ ràng thành một bức tranh đẹp là do có cảm giác sai lầm, nếu dùng tay rờ thì biết không có cao thấp; không có cao thấp thì không thành bức tranh. Mình coi chiếu phim giống như thật, do cảm giác sai lầm nên thành tựu cuốn phim. Nếu không có cảm giác sai lầm thì cuốn phim đó thành những bức tranh chết.

Hiện tượng thế giới vũ trụ vạn vật, muôn ngàn sai biệt là do nhận thức sai lầm của bộ óc; cho nên gọi là nhất thiết duy tâm tạo. Nếu mình ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì sai lầm hết là đến chỗ chân thật (chân tâm), nên tất cả tai họa phiền não không còn. Chỗ chân thật không có tương đối, nếu các chúng sanh đi đến chỗ giác ngộ, như tất cả đèn đều chung một ánh sáng; tức là hưởng cùng một hạnh phúc chung, chứ không còn xẩy ra tai họa. Như bây giờ chiến tranh Trung đông ảnh hưởng khắp thế giới, người trực tiếp ảnh hưởng bị chết, người gián tiếp chịu cuộc sống nặng nề thêm.

Hỏi:

Làm sao phân biệt vô thỉ vô minh với tự tánh?

Đáp:

Vô thỉ vô minh mà bây giờ tôi nói tham thoại đầu. Tại sao gọi là thoại đầu? Thoại là một lời nói, đầu là trước khi một lời nói; mình muốn nói một lời nói phải khởi niệm lên rồi nói ra. Thoại đầu là chưa khởi niệm muốn nói, nếu khởi niệm muốn nói nhưng chưa nói ra miệng gọi là thoại vỉ. Tham thiền gọi là tham thoại đầu, muốn dùng nghi tình đến một niệm chưa sanh khởi. Chỗ một niệm chưa sanh khởi gọi là vô thỉ vô minh.

Ví dụ trên đầu cây viết là thoại đầu, dưới đầu cây viết là thoại vỉ; đề câu thoại đầu lên như “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Cảm thấy không biết. Không biết này là nghi tình cũng là đường đi của ý thức, dùng không biết của ý thức đang đi giữa đường, một ngày kia đến thoại đầu thì đường đi ý thức đã hết, trước thấy thanh thanh tịnh tịnh không còn gì nữa, chỗ đó là thoại đầu cũng là vô thỉ vô minh. Ngoại đạo và Tiểu thừa đến chỗ này cho là đến cứu cánh Niết bàn. Sự thật chỗ này còn dính líu ý thức, chỗ này là nguồn gốc của ý thức. Chính chỗ này là vô thỉ vô minh, nổi lên một niệm gọi là nhất niệm vô minh.

Bây giờ mình sống hằng ngày trong tương đối đều là nhất niệm vô minh, từ nhất niệm này qua nhất niệm kia ngày đêm không ngừng; ban đêm hiện ra cảnh giới nhắm mắt chiêm bao, ban ngày hiện ra cảnh giới mở mắt chiêm bao. Tham thiền là dùng nhất niệm vô minh đi đến chỗ vô thỉ vô minh. Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, từ đầu sào trăm thước bước lên một bước là kiến tánh, tức là rời khỏi ý thức. Sát na rời khỏi ý thức là kiến tánh, tức là phá vô thỉ vô minh.

Kiến tánh của Thiền tông cũng có tiểu ngộ và đại ngộ: tiểu ngộ gọi là tiểu tử tiểu hoạt, như ngài Lai Quả nói “từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước lọt vào hư không té xuống cho chết rồi sống lại”. Mặc dù té chết nhưng còn cái xác, sống lại gọi là tiểu tử tiểu hoạt. Đại tử đại hoạt là té chết mà cái xác tan rã hết rồi sống lại. Cái xác đó dụ cho cảnh giới ngộ, cũng như Tiểu thừa chứng quả A la hán còn ôm quả A la hán cho là thật, không buông; cho nên bị Phật quở “tiêu nha bại chủng” (hạt lúa cháy không làm hạt giống).

Đại ngộ không trụ nơi cảnh giới ngộ, cho nên nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Tại sao? Vì có mê mới có ngộ, nếu ngộ triệt để thì không có mê; hết mê phải hết ngộ, vì không có sự mê ngộ làm tương đối. Tiểu ngộ còn ôm cái ngộ, tức là trụ nơi ngộ thì còn mê để tương đối. Lúc đại ngộ thì luôn cái ngộ cũng không còn, nếu còn có ngộ nên còn có mê; tức là cái xác cũng tan rã, không còn cái gì nữa. Tự tánh mình cùng khắp không gian thời gian, không trụ ở chỗ nào. Như kinh Kim Cang nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là không trụ nơi nào gọi là vô sở trụ.

Ví dụ cái tay cho chân tâm hoạt bát vạn năng, lấy cái tách, cây viết, cái bình… đều được; nếu trụ cây viết thì lấy cái gì không được, nên cần buông cây viết để khôi phục cái dùng của tay. Cây viết này là pháp có, lại tự làm nắm tay thì cái dùng của tay bị mất nên lấy thứ gì cũng không được. Vì vậy, nắm tay cũng phải buông mới khôi phục cái dùng của tay. Hoạt bát vạn năng của giác tánh là chân tâm mình sẵn có như vầy.

Có sở trụ thì cái dụng bị mất, trụ nơi có hay nơi không đều bị mất cái dụng; trụ nơi Niết bàn hoặc Phật cũng vậy. Vì thế, phải đại ngộ, còn tiểu ngộ bị cái ngộ chướng ngại, cái dụng không hoạt bát vạn năng. Cho nên nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, sanh kỳ tâm là dụng của giác tánh; phải vô trụ mới hoạt bát vạn năng thì dụng khắp không gian thời gian, gọi là Phật pháp vô biên. Lục Tổ nói “lấy vô trụ làm gốc”, nghĩa vô trụ bất nhị là nghĩa vô thỉ vô sanh.

Hỏi:

Phá vô thỉ vô minh bằng cách nào?

Đáp:

Tham thoại đầu một ngày nào sẽ đến vô thỉ vô minh (thoại đầu) thì câu thoại tự mất, nhưng nghi tình ngày đêm không giây phút gián đoạn; muốn buông bỏ nghi tình cũng không buông bỏ được, tức là công phu đã thành khối 24/24. Từ thoại đầu tiến tới nữa là kiến tánh; có người bị đánh bạt tai, đi vấp té, nghe người ta hát… được kiến tánh; bất cứ thấy cơ duyên gì cũng kiến tánh, vì công phu đã đến mức (thoại đầu).

Tham thoại đầu là mục đích đến thoại đầu, đến thoại đầu rồi mình không muốn kiến tánh cũng không được. Bởi vì, đã đến nơi mà nói chưa đến làm sao được! Cứ tham thiền miên mật hỏi câu thoại đầu, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Hỏi khít khít đừng cho có kẻ hở, hỏi rồi cách một hồi hỏi nữa là có kẻ hở thì vọng tưởng nổi lên. Khi phiền não vọng tưởng nổi lên thì nghi tình bị gián đoạn, hỏi khít khít gọi là công phu miên mật không có kẻ hở, vọng tưởng phiền não không nổi lên.

Tham thiền không có kẻ hở, tham một phút thì một phút không phiền não, tham một tiếng thì một tiếng không có phiền não, tham được một ngày thì một ngày không có phiền não, như vậy liên tiếp sẽ đưa mình đến chỗ giác ngộ.

Hỏi:

Pháp môn Tổ sư thiền dành cho thượng căn, chúng con phàm phu hạ căn làm sao dám theo được?

Đáp:

Giác tánh vốn bất nhị không có cao thấp, không có thượng căn với hạ căn. Tâm chấp thật nên có thượng căn hạ căn. Tổ Bác Sơn của tông Tào động nói “tham thiền có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp, chuyển hạ căn thành thượng căn”. Giáo môn nói chánh pháp 1.000 năm, tượng pháp 1.000 năm và mạt pháp 10.000 ngàn năm; bây giờ là thời kỳ mạt pháp. Nói mạt pháp chuyển thành chánh pháp mà tôi chưa chứng tỏ, còn hạ căn chuyển thành thượng căn, tôi ở Việt Nam đã chứng tỏ.

Nhiều người tham thiền tự cho là hạ căn, do coi kinh Phật không hiểu, theo tôi tham thiền nửa năm một năm phát được trí huệ coi kinh hiểu. Đầu năm 1980, tôi và một số Phật tử tham đến Phật Học Viện hỏi các vị học Tăng, có cái trả lời được, có cái trả lời không được. Những học Tăng hỏi lại Phật tử thì Phật tử đều trả lời được. Chứng tỏ chuyển hạ căn thành thượng căn. Tại sao? Phật pháp là pháp bất nhị không tương đối, làm sao có hạ căn và thượng căn! Có thượng căn và hạ căn do chấp tâm mới có.

Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có 2 cơ bản: tin tự tâm và phát nghi tình. Phải tin tự tâm mình có tất cả thần thông biến hóa, trí tuệ bằng Phật Thích Ca, không kém một chút nào. Nếu kém một chút là có cao thấp, không phải bình đẳng; có cao thấp là nhị, không phải lời của Phật Thích Ca nói “Phật tánh của chúng sanh và Phật tánh của chư Phật bình đẳng bất nhị”. Nếu không tin tự tâm làm sao phát hiện tự tâm? Phật pháp mục đích phát hiện tự tâm, gọi là kiến tánh thành Phật.

Tôi có đề ra 3 đứa bé gái: Long nữ 8 tuổi kiến tánh, cô bé họ Trịnh 13 tuổi kiến tánh, cô bé họ Tô 15 tuổi kiến tánh. Kinh Pháp Hoa nói “người nữ không thể thành Phật”, nhưng sự thật trong kinh Pháp Hoa có Long nữ 8 tuổi thành Phật. Không phải tu lâu hay mới tu mà nói là thượng căn hạ căn. Tôi nói Lục Tổ là người không biết chữ kiến tánh, người ta nói là Bồ tát tái lai. Chư Tổ nói “ai nói Bồ tát tái lai là vọng”. Bởi vì, Phật tánh của mình, Phật tánh của Bồ tát và của chư Phật đều bằng nhau. Mình không biết kiếp trước mình là sao! Kiếp trước đã gieo trồng thiện căn thì kiếp này mau kiến tánh.

Cho nên, đừng tin Lục Tổ là Bồ tát tái lai, chư Tổ cũng đã phủ nhận. Tất cả Bồ tát tái lai là tâm tạo, hiện tượng thế giới đều do tâm tạo. Ban đêm ngủ tạo ra nhắm mắt chiêm bao, ban ngày tạo ra mở mắt chiêm bao. Người đời chỉ cho nắm mắt chiêm bao là chiêm bao, còn mở mắt chiêm bao không phải chiêm bao. Nhưng sự thật mở mắt chiêm bao cũng là chiêm bao. Tại sao? Vì một thức biến hiện và hai thức biến hiện đều là thức. Thức (tâm) biến hiện là chiêm bao, nên Phật nói “tất cả do tâm tạo”.

Tâm tạo nên không phải thật, vì vậy Phật dạy pháp thiền trực tiếp để đến chỗ giác ngộ, tự mình chứng tỏ. Như nhắm mắt chiêm bao thức tỉnh, chứng tỏ nhắm mắt chiêm bao không thật; mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì chứng tỏ mở mắt chiêm bao cũng không thật, chỉ do tâm tạo. Đó là mục đích Phật độ chúng sanh.

Hỏi:

Kinh Viên Giác nói “thân và tâm của tất cả chúng sanh đều như huyễn”. Vậy tự tâm ở đâu sanh ra?

Đáp:

Phật đã nói là “vô thỉ” (không có bắt đầu), nếu thật có bắt đầu là sanh, không bắt đầu là vô sanh, cho nên người chứng quả ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn. Pháp đã vô sanh làm sao có câu hỏi trên? Vậy không thể nói từ đâu sanh ra! Truy cứu tất cả vũ trụ vạn vật không cái nào có lý bắt đầu.

Như con gà và trứng gà, nói con gà trước tiên được không? Không được. Tại sao? Vì không có trứng gà thì không ấp ra con gà. Trái lại, nói trứng gà bắt đầu được không? Cũng không được. Tại sao? Không có con gà thì không đẻ ra trứng gà. Hai cái đều không có bắt đầu là nghĩa vô sanh.

Cái bàn làm bằng cây, nói cây bắt đầu được không? Không được. Không hạt cây làm sao mộc lên cây! Nói hạt cây bắt đầu được không? Không được. Không có cây thì không sanh ra hạt cây. Cũng như con gà và trứng gà vậy.

Người cho sanh là bắt đầu, chết là cuối cùng. Ngài Long Thọ là Tổ 14 của Thiền tông có một cuốn Trung Quán Luận, trong đó có một bài kệ để thuyết minh sanh tử không có bắt đầu. Tại sao? Giả tỷ sanh là bắt đầu thì khỏi cần tử có sanh, tức lìa tử, độc lập. Nếu sanh đã lìa tử độc lập thì sanh khỏi tử. Nhưng bây giờ có người nào có sanh mà khỏi tử không? Không có sinh vật nào có sanh mà không có tử. Sanh với tử không thể lìa nhau được, nên nói sanh bắt đầu là không đúng. Sanh tử không có bắt đầu thì tất cả đều không có bắt đầu, vì tất cả do sanh tử mới có.

Hỏi:

Kính xin Thiền sư giải thích con chó có Phật tánh không?

Đáp:

Đây là công án của Triệu Châu:
Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: có.
Tăng khác hỏi: con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: không.

Tại sao người hỏi nói có, người hỏi nói không? Vì chư Phật chư Tổ nói, ý không phải trong lời nói; chỉ dùng phương tiện phá chấp của đương cơ. Người chấp có Phật tánh thì nói là không, dùng cái không để phá chấp có. Người chấp không thì nói có, dùng cái có để phá chấp không. Đó là nghĩa vô sở trụ, kinh Lăng Già nói “lìa tứ cú, tuyệt bách phi”. Tứ cú là gì? Có là cú thứ nhất, không là cú thứ nhì, cũng có cũng không là cú thứ ba, chẳng có chẳng không là cú thứ tư.

Chúng sanh chấp cái có thì Phật nói không, dùng cái không làm công cụ để phá; chúng sanh chấp cái không thì Phật thấy bệnh chấp vẫn còn, dùng cái có làm công cụ để phá; chúng sanh thấy Phật phá có phá không cho là chẳng có chẳng không thì chấp chẳng có chẳng không nên bệnh chấp vẫn còn, Phật phải dùng cũng có cũng không để phá; cuối cùng cho cũng có cũng không là chân lý, chấp cũng có cũng không cũng là bệnh nên Phật trở lại dùng chẳng có chẳng không để phá.

Như vậy tứ cú đều phá hết, có cũng phá, không cũng phá, chẳng có chẳng không cũng phá, cũng có cũng không cũng phá, gọi là lìa tứ cú; tức là không trụ nơi có, không trụ nơi không, không trụ nơi chẳng có chẳng không, không trụ nơi cũng có cũng không, là nghĩa vô sở trụ. Nghĩa vô sở trụ của Phật tánh là hoạt bát vạn năng, cái dụng vô lượng vô biên. Nếu có sở trụ thì cái dụng bị mất.

Cho nên, người chấp có thì Triệu Châu nói không, người nói không thì Triệu châu nói có. Đó chỉ là dùng để phá chấp, sự thật chẳng phải có, chẳng phải không, cũng không phải chẳng có chẳng không, cũng không phải cũng có cũng không. Việc này phải tự ngộ mới biết, chưa ngộ cứ dùng bộ óc truy cứu thì ở trong tương đối hoài. Vì vậy, Phật không thể nói ra, kinh Kim Cang nói “ai nói Phật có thuyết pháp, người ấy phỉ báng Phật” và “không có pháp nhất định để cho Như lai thuyết” mà cũng nói “vô pháp khả thuyết gọi là thuyết pháp”.

Hỏi:

“Tuyệt bách phi” nghĩa là gì?

Đáp:

Phi là sai lầm, sai là đối với đúng cũng là tương đối, vì có đúng mới có sai và có sai mới có đúng. Nếu vô sở trụ là lìa tứ cú thì tất cả đúng cũng phải lìa, sai cũng phải lìa. Nếu cho là sai phải có đúng để tương đối, còn nằm trong tương đối là có sở trụ, trụ chỗ sai.

Có người hỏi ngài Nguyệt Khê: tôi ăn cơm không chấp trước ăn cơm, mặc áo không chấp trước mặc áo, nói chuyện không chấp trước nói chuyện, cái gì cũng không chấp trước. Vậy có đúng với phương pháp của Thiền tông không?

Nguyệt Khê nói: không đúng. Ông nói không chấp trước tức là đã chấp trước rồi. Nếu không chấp trước tại sao còn biết mặc áo ăn cơm? Còn biết không chấp trước? Biết không chấp trước là đã chấp trước. Bây giờ phải dùng không chấp trước để nhìn ngay vô thỉ vô minh mà tham cứu, tức tham thoại đầu. Sau khi ngộ tự nhiên không chấp trước. Dùng bộ óc phân biệt không chấp trước là chấp trước.

Hỏi:

Ngồi thiền nghe tiếng và thấy Phật, vậy đúng chánh pháp không? Vì Phật nói trong kinh Kim cang “nếu thấy hình và nghe tiếng cho là Phật, người ấy hành tà đạo”. Kính xin Thầy chỉ dạy?

Đáp:

Giác tánh không có hình tướng, làm sao thấy! Cho nên, kinh Kim Cang nói “nếu dùng sắc để thấy ta hay dùng âm thanh để cầu ta, người ấy hành tà đạo, chẳng thể thấy được Như lai”. Nếu có âm thanh Phật để nghe, có hình tướng Phật để thấy đều nghịch với chánh pháp. Nếu dùng cái này để dạy người thì phải bị đọa địa ngục, không những thầy đọa địa ngục mà trò cũng đọa theo (trong 50 thứ ma ngũ ấm của kinh Lăng Nghiêm nói rõ).

Hỏi:

A la hán không còn sanh tử, có thể trả quả sát sanh trong lúc tu hành khi đã tạo hay vô tình tạo không? 

Đáp:

Giác tánh là bất nhị, không có tương đối.

Kinh Hoa Nghiêm nói:
Nhược nhân dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật.
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo”.

Đã nói nhứt thiết duy tạo thì tâm tạo mới có, tâm tạo ban đêm là cảnh giới nhắm mắt chiêm bao, tâm tạo ban ngày là cảnh giới mở mắt chiêm bao. Chiêm bao thì không thật, cho nên nói tất cả đều huyễn hóa. Sát sanh ở trong chiêm bao, nếu không ra ngoài chiêm bao phải chịu nhân quả trong chiêm bao. Trong chiêm bao được thức tỉnh thì thân chiêm bao không còn, ai còn chịu quả chiêm bao?

Mười mấy năm nay người ta đi vượt biên, có nhiều tiền mới đi vượt biên được. Ở trên biển ăn hết lương thực phải chịu chết đói. Những người có tiền đâu nghĩ mình bị chết đói! Vì kiếp trước họ đã gieo nhân chết đói, đã làm cho người ta chết đói thì kiếp này phải chịu quả chết đói, có tiền cũng phải chịu chết đói. 

Phật nói “nhứt thiết duy tâm tạo”, tâm lực yếu tạo nhân yếu thì cái quả kéo lại sau, tâm lực mạnh tạo nhân mạnh thì quả đến trước. Như người thiếu nợ nhiều người, chủ nợ thế lực mạnh phải trả trước, chủ nợ thế lực yếu trả sau.

Thí dụ người không có tu tâm lực 1 độ, người tu đến thành Phật tâm lực 1 triệu độ. Kiếp trước tạo cho người ta chết đói, không có tu tâm lực 1 độ, kiếp này không có tu thì tâm lực cũng 1 độ, có tiền cũng bị chết đói. Cho nên, mười mấy năm nay vượt biên chết đói biết bao nhiêu là những người có tiền, vì họ gieo nhân chết đói.

Tham thiền từ 1 độ lên 10 độ, mặc dù nhân mới làm thiện thì cái quả sẽ đến trước, nhân làm cho người ta chết đói kéo lại sau. Giả tỷ tâm lực 10 độ, mình không tham thiền nữa thì quả 10 độ hết đến tâm lực 1 độ cũng phải chịu quả chết đói. Nếu từ 10 độ mà mình không ngưng tham thiền, tiếp tục tham cho đến 1 triệu độ thành Phật. Phật nào cũng phải độ chúng sanh, những người mình làm chết đói thì có quyền ưu tiên độ trước. Tuy đã thành Phật nhưng nhân vẫn còn, mình phải trở lại độ người ấy giải thoát tất cả khổ.

Hỏi:

Khi ngộ rồi thì học nhân phải gì?

Đáp:

Lúc đó người ngộ tự biết, như nói “người uống nước lạnh nóng tự biết”. Bây giờ mình chỉ lo việc đi đến chỗ ngộ thì lúc ngộ tự biết, như Phật Thích Ca đã ngộ, ở Trung Quốc có 7.000 Tổ ghi trong lịch sử Thiền tông đã ngộ, các vị không thể nói cho mình biết, chỉ dạy đường lối thực hành để cho mình tự ngộ. Nếu nói được thì Phật Thích Ca đã nói cho mình biết, mình khỏi cần tu, khỏi cần ngộ; việc đó người ngộ tự biết.

Hỏi:

Chấp thường kiến của ngoại đạo và tin tự tâm bất sanh bất diệt của đạo Phật khác nhau như thế nào?

Đáp:

Thường kiến của ngoại đạo là có sở trụ, Phật pháp là vô sở trụ. Thường kiến ngoại đạo chấp cái có là thật, đoạn kiến là chấp cái không là thật; tức là thường kiến ngoại đạo trụ nơi có, đoạn kiến ngoại đạo trụ nơi không. Phật pháp không trụ nơi có, cũng không trụ nơi không. Ngoại đạo và đạo Phật khác nhau là có sở trụ và vô sở trụ.

Hỏi:

Tại sao có nhiều Phật?

Đáp:

Vì có nhiều chúng sanh nên có nhiều Phật, vô lượng vô biên chúng sanh thì phải có hằng hà sa số chư Phật.

Hỏi:

Xin Thầy giải thích nguyên nhân đầu tiên, nói một cách khác là ai tạo thiên lập địa?

Đáp:

Tất cả các tôn giáo khác, ngoài đạo Phật thành lập có chỗ bắt đầu và kiến lập chân lý; còn Phật Thích Ca đã nói là vô thỉ, tức không có sự bắt đầu; cho nên nói là vô sanh, người chứng quả ngộ pháp vô sanh.

Hỏi:

Văn minh Do Thái, Thiên Chúa chủ trương khoa học, nhờ vậy nhân loại ngày nay càng ngày càng tốt đẹp hơn, đời sống dài hơn, phương tiện tốt hơn; tức là con người thể hiện dùng sức thần thông, Phật giáo cho là càng ngày càng xấu hơn, tuổi thọ ít hơn cho đến khi Phật Di Lặc ra đời. Kính xin Thầy giải thích?

Đáp:

Bây giờ mình thấy xã hội trước mắt: khi chưa phát minh một cái máy, phải cần 100 người làm việc để đủ một số sản phẩm, khi phát minh một cái máy chỉ cần 3 người làm việc thì sản xuất đủ một số sản phẩm, cho nên 97 người thất nghiệp. Sản xuất đồ này tiêu thụ trong thị trường, 97 người thất nghiệp thì sự tiêu thụ bớt lại, vì họ không có tiền. Nhưng đồ sản xuất lại tăng thêm, sức tiêu thụ giảm bớt. 

Đó trở thành mâu thuẫn tương đối, phát minh máy móc nhiều chừng nào thì thất nghiệp nhiều chừng nấy. Những người thất nghiệp không có nghề chân chánh để sống, nên họ phải làm nghề lường gạt để sống hay có khi làm loạn trật tự xã hội. Những người có trách nhiệm giữ trật tự cũng không giữ nổi.

Lại, phát minh là tiện cho giao thông, mà bây giờ xe hơi nhiều quá làm cho giao thông thường bị tắt nghẽn. Thống kê toàn nước Mỹ mỗi ngày tai nạn xe hơi chết trên năm mươi mấy người, bị thương chưa kể đến, sau này tai nạn có thể tăng lên nữa.

Thuốc men tiến bộ trị bệnh mau hết, nhưng các bệnh khác phát triển còn nhanh hơn; dù dùng thuốc mới để trị cũng không trị hết bệnh. Vì ở trong tương đối có lợi phải có hại, tất cả tai họa do bộ óc làm chủ thì có ngã chấp, cái gì tôi cũng phải hơn ông, nên giành giựt lợi ích của cá nhân để thỏa mãn dục vọng của cá nhân. 

Vì vậy phải có sự xung đột đấu tranh với nhau, có hơn thua, thắng bại. Bên thất bại có thể bị chết hay quyền lợi tài sản tổn thất nặng nề, bên thắng lợi mặc dù khỏi chết cũng phải bị thương, không tổn thất nặng cũng phải tổn thất nhẹ. Bên thắng và bên thất bại, hai bên đều bị tổn thất. Từ cá nhân, chủng tộc, quốc gia… thắng và bại đều phải tổn hại từ sinh mạng cho đến tài sản, mà khắp thế giới đều bị ảnh hưởng.

Khoa học tiến bộ nhiều chừng nào thì vũ khí giết hại nhiều chừng nấy, khoa học sản xuất để cho mình dùng thì có lợi. Để đáp ứng dục vọng của mình, sản xuất ra nhiều vũ khí tối tân bảo thủ quyền lợi của mình thì phải có sự đấu tranh. Phật Thích Ca biết những lỗi đó là do bộ óc chấp ngã. Hết ngã chấp thì khoa học tiến bộ đem lại hạnh phúc cho con người chỉ có lợi không có hại. Nếu cho bộ óc làm chủ điều khiển thì tai hại mãi mãi.

Phật pháp chuyển chủ quyền của bộ óc để cho giác tánh, nếu giác tánh được làm chủ sai khiến bộ óc làm việc, thì khoa học tiến bộ mới đem lại cho con người được hạnh phúc không giới hạn. Đó cũng là mục đích của Phật pháp độ chúng sanh.

Hỏi:

Tại sao người tu Tịnh độ không thể vãng sanh?

Đáp:

Người tu Tịnh độ nếu được vãng sanh có thể tu tiếp thành Phật, nhưng muốn được vãng sanh phải tu đúng tông Tịnh độ. Tham Tổ sư thiền phải đúng tông chỉ Tổ sư thiền, người tu chỉ quán phải đúng tông Thiên thai. Theo tôi biết người tu Tịnh độ không có một người tu đúng tông chỉ Tịnh độ. Tại sao tôi dám nói vậy? Vì tôi trước kia có hoằng Tịnh độ mười mấy năm, chưa có gặp người nào tu đúng theo tông chỉ Tịnh độ.

Tông chỉ Tịnh độ là cái gì? Là tín, nguyện, hạnh. Thế nào gọi là tin? Có 3 thứ tin. Thế nào gọi là nguyện? Có 2 thứ nguyện. Thế nào gọi là hành? Có 2 thứ hành. Trước kia tôi ở Việt Nam hỏi người dạy Tịnh độ: Thế nào là 3 thứ tin, 2 thứ nguyện, 2 thứ hành? Họ trả lời không được. Người dạy còn không biết, người học làm sao biết được?

Trong kinh Di Đà nói cái nguyện ba bốn lần, quyết định được vãng sanh là do cái nguyện; mà cái nguyện chân thật là do cái tin, tất cả tông phái nào đầu tiên là phải tin. Như Thiền tông nói “tin mười phần thì cái nghi được mười phần, nghi mười phần thì cái ngộ được mười phần”. Người tu Tịnh độ không có người nào đi đúng theo tông chỉ Tịnh độ. Tại sao? Họ không thực hành đại nguyện của mình phát.

Cái nguyện có hai thứ: tiểu nguyện và đại nguyện.

Tiểu nguyện là chỉ cầu cho một mình được vãng sanh thì không đúng với nhân quả, không hợp nhân quả, cho nên không được vãng sanh. Bởi vì vãng sanh là không đi đầu thai để trả nợ. Vì vậy phải phát đại nguyện, nhân lành được phước báo, nhân ác phải chịu khổ báo. Trước kia mình từ nhỏ đến lớn có giết chết một con muỗi, một con kiến không? Có ăn thịt gà, thịt heo không? Nếu có phải đầu thai để trả nợ, làm sao được vãng sanh! Muốn vãng sanh kiếp sau trả thì phải phát đại nguyện.

Hai chữ hồi hướng người ta cũng hiểu lầm, hồi hướng là phá ngã chấp; hồi hướng của người ta hiểu là tăng cường ngã chấp, tức các việc làm là công đức của tôi; thương người này hồi hướng cho người này, thương người kia hồi hướng cho người kia. Đó là bác ái của ngoại đạo chứ không phải từ bi của Phật pháp. Hồi hướng của Phật pháp là các công đức tôi làm chung cho chúng sanh, bất quá tôi chỉ là một trong chúng sanh, không phải của tôi để cho người này người kia.

Cho nên, Giáo môn phá hết ngã chấp thập hồi hướng mới lên sơ địa Bồ tát. Mình làm tất cả công đức đều là chung của tất cả chúng sanh, vì chúng sanh đều là chủ nợ của ta. Mình phát nguyện tất cả chúng sanh cùng mình đều được vãng sanh. Những người chưa được vãng sanh, mình trở lại độ họ được vãng sanh, tức là chủ nợ thịt nợ mạng của mình đều độ hết. Nếu phát nguyện như vậy phải xem tất cả chúng sanh bình đẳng. Nhưng mình chỉ phát nguyện là miệng nói tâm nghĩ, không có thực hành cái đại nguyện của mình phát, gọi là nguyện suông nguyện giả. Nguyện suông nguyện giả thì không thể vãng sanh.

Như mình có trương mục ngân hàng không có tiền hay tiền ít quá không đủ trả họ, chủ nợ rất nhiều. Nhưng mình không có tiền rồi ký ngân phiếu hẹn năm năm mười năm trả (hẹn thành Phật trả), mỗi ngày mình gửi tiền vô ngân hàng (thực hành đại nguyện của mình phát, đại nguyện là ngân phiếu), sau này người vô ngân hàng lãnh tiền. Nếu mình ký ngân phiếu giả, như trương mục của mình trong ngân hàng không có tiền. Người ta đến ngân hàng lấy tiền không có thì phải bị tù (không có công đức làm sao được vãng sanh, vì cái nguyện giả).

Đối với người không có bình đẳng huống là đối với các loài thú vật. Con chó đến gần mình liền đá cho nó đi, làm sao coi nó bình đẳng! Muốn thực hành đại nguyện của mình phát không dễ. Tôi biết không có một người nào đi đúng theo tông chỉ của Tịnh độ, tu còn không có làm sao được vãng sanh? Tu đúng tông Tịnh độ, chỉ cần một niệm được vãng sanh, khỏi cần 10 niệm. Nếu tu không đúng thì muôn triệu ngàn niệm cũng không được vãng sanh, cho đến niệm nhứt tâm bất loạn cũng không được vãng sanh, chỉ có thể sanh cõi người hoặc cõi trời phải chịu nhân quả.

Thực hành đại nguyện được chấm dứt nhân quả, vừa rồi tôi có thí dụ chết đói. Nếu mình không vãng sanh làm sao độ chúng sanh, vãng sanh rồi thành Phật mới độ chúng sanh. Cho nên, Tịnh độ khó chỗ thực hành đại nguyện của mình phát.

Hỏi:

Cái hại chấp trước kinh điển, chấp trước chân lý là như thế nào?

Đáp:

Chấp trước đều là tác dụng của bộ óc là tướng bệnh, Phật pháp muốn hiện giác tánh của mình là tướng mạnh. Nếu cứ đuổi theo tướng bệnh để tìm tướng mạnh thì càng tìm càng xa tướng mạnh; vì tướng bệnh kéo dài nên tướng mạnh ẩn. Muốn tướng mạnh hiện lên phải chấm dứt tướng bệnh. Tham Tổ sư thiền là chấm dứt tướng bệnh để cho tướng mạnh chánh biến tri hiện lên.

Nếu đuổi theo lời nói của Phật, dùng bộ óc suy tìm trong kinh điển, Trí Giả Đại Sư nói “học pháp thành ngoại đạo”, Ngài nói có 3 thứ ngoại đạo:

1-Chánh thức ngoại đạo: không dùng bản hiệu Phật giáo, dùng bảng hiệu ngoại đạo, họ tu sanh lên cõi trời, nhưng không được ra khỏi sanh tử luân hồi.

2-Hành pháp ngoại đạo, lấy bản hiệu Phật giáo: để cho người ta hiểu lầm tà pháp cho là chánh pháp, làm hại người ta, những người đó phải đọa địa ngục.

3-Học Phật pháp thành ngoại đạo: đuổi theo lời nói của Phật, cho lời nói của Phật là chân lý, hiểu lầm ý của Phật; nghe Phật nói có cho có là chân lý, nghe Phật nói không cho không là chân lý. Phật nói có là dùng có để phá không, Phật nói không là dùng không để phá có; khi Phật nói có thì ý của Phật không trụ nơi có, lúc Phật nói không thì ý của Phật không trụ nơi không. Nghĩa của Phật là vô sở trụ, nhưng người học Phật pháp không hiểu nghĩa của Phật, lấy ý của mình cho lời nói của Phật là chân lý thì lọt vào ngoại đạo.

Chấp thường gọi là thường kiến ngoại đạo, chấp không gọi là đoạn kiến ngoại đạo, cũng nằm ở trong tương đối. Cho nên, nói Pháp chỉ giảng được hai câu thì pháp sư phải đọa địa ngục, nhưng Pháp sư giảng thấu ba câu (vô sở trụ) mà người nghe hiểu lầm là do lỗi người nghe, không phải lỗi Pháp sư. Những người chấp theo lời nói của Phật cho là thật để dạy chúng sanh, gọi là học Phật pháp thành ngoại đạo.

Phải hiểu ý của Phật, tại sao Phật nói như vầy? Lời của Phật, Tổ đều không phải ở trong văn tự lời nói, chỉ mượn văn tự lời nói để phá chấp đương cơ của chúng sanh; tức là dùng thuốc giả để trị bệnh giả, nếu bệnh giả hết thì thuốc giả phải bỏ; như nhờ chiếc bè đưa qua sông, nếu qua bờ bên kia thì chiếc bè cũng phải bỏ, chứ không được vác chiếc bè trên vai đi chơi. Đó là nghĩa vô sở trụ.

Hỏi:

Khoa học chứng minh như thế nào về sự tái sinh tâm thức luân hồi của nhà Phật?

Đáp:

Sanh tử vốn không có bắt đầu thì luân hồi cũng không có bắt đầu, do tâm hoạt động, ban đêm hoạt động tạo ra cảnh giới nhắm mắt chiêm bao, ban ngày hoạt động tạo ra cảnh giới mở mắt chiêm bao. Chiêm bao không có sự bắt đầu, như thân xoay cảm thấy căn nhà xoay; căn nhà xoay dụ cho sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay dụ cho cứu kính Niết bàn. Nhưng căn nhà vốn không xoay, làm sao có sự ngưng xoay!

Cho nên, Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, vốn không có vô minh, làm sao có vô minh hết! Vô minh là chúng sanh, vô minh hết là Niết bàn; vốn không có lão tử, làm sao có lão tử hết! Tất cả đều là việc chiêm bao. Nói theo bản thể giác tánh vốn không có tái sanh, chỉ là do cảm giác sai lầm mới có. Vì vậy, Phật nói trắng ra là vô thỉ, vô sanh; nếu là vô sanh làm sao có tái sanh?

Theo sự hiểu lầm của người đời có tái sanh (sanh tử luân hồi). Nói theo bất liễu nghĩa thì có sanh tử luân hồi, gọi là tam thế nhân quả; tức là kiếp trước tạo nhân gì thì kiếp này được quả nấy, như gieo nhân chết đói phải chịu quả chết đói. Khoa học không chứng tỏ được việc tái sanh, khoa học ở trong Phật pháp, Phật pháp không thuộc về khoa học. Khoa học chứng tỏ những cái có hiện tượng, không thể chứng tỏ chỗ bắt đầu. Vì có chỗ bắt đầu nên có tái sanh, sanh không có bắt đầu làm sao có tái sanh! Cũng như khoa học không thể bắt đầu được.

Những việc khoa học chưa biết cho là tự nhiên, nhưng Phật trong kinh Lăng Nghiêm đã phủ nhận không phải tự nhiên và phủ nhận nhân duyên. Tại sao? Như con gà sanh trứng gà, trứng gà ấp ra con gà, đó là nhân duyên; con gà làm nhân cho trứng gà, trứng gà cũng làm nhân cho con gà; con gà là quả của trứng gà, trứng gà cũng là quả của con gà. Con gà và trứng gà làm nhân duyên với nhau.

Nếu nói nhân duyên là thật thì phải có nhân đầu tiên, không có nhân đầu tiên thì không thể nói là bắt đầu, nên cái lý nhân duyên không thể thành lập. Rồi nói là tự nhiên khi không có con gà hay trứng gà, trứng gà khỏi cần con gà sanh hay con gà khỏi cần trứng gà ấp! Nếu tự nhiên là thật, bây giờ mình thấy con gà hay trứng gà tự nhiên mà được không? Không được.

Hỏi:

Xin Thầy giảng về khổ?

Đáp:

Tác dụng của Phật pháp đều muốn cho tất cả chúng sanh đạt đến tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ. Con người sanh ra ở đời có đủ thứ khổ, trong kinh Phật nói tứ khổ là sanh, già, bệnh, chết. Nói tám khổ là thêm ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc và ngũ uẩn ẩm xí.

Những người thù oán với mình không muốn gặp nhưng hay gặp hoài, nên thấy tức giận khó chịu. Những người mình yêu mến lại chia ly đi xa hoặc là sanh ly tử biệt. Có muốn cầu mà cầu không được cũng là khổ, được rồi sợ mất nên cũng khổ. Nếu thân này không giải thoát thì thân này sang thân kia, thân người sang thân thú, kiếp này sang kiếp khác khổ hoài. Nói vi tế có 84.000 thứ khổ, nếu không nhờ Phật pháp để tu hành đến chỗ giác ngộ không thể dứt được. Mục đích đức Phật độ chúng sanh đều được giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn.

Khoa học phát minh đồ dùng cũng là có ích cho nhân loại, nhưng chấp ngã của bộ óc thì có lợi phải có hại; vì ngã chấp nên tranh giành với nhau, phát minh đồ dùng có ích mà tranh đấu phát minh vũ khí làm hại cho loài người. Như bây giờ chiến tranh Trung Đông một ngày không biết chết bao nhiêu người, những người trực tiếp bị chết, những người bị ảnh hưởng gián tiếp thì đời sống khó khăn thêm.

Muốn không có sự tương đối, để hưởng hạnh phúc phải nhờ Phật pháp. Nếu người nào cũng theo lời dạy của Phật, rồi thực hành phá được ngã chấp không còn đấu tranh, cái khổ do đấu tranh sanh ra tự nhiên sẽ hết. Không có đấu tranh thì thần kinh không căng thẳng. Cuộc sống làm cho thần kinh căng thẳng sanh ra đủ thứ bệnh. Đấu tranh là ông muốn hơn tôi, tôi muốn hơn ông, phải có xung đột đổ máu thì bên thắng hay bại đều bị tổn hại sanh ra đau khổ. Mình làm theo lời Phật dạy dần dần được giải thoát tất cả khổ.

Hỏi: 

Học tập Phật pháp nghiên cứu kinh điển và cứu độ chúng sanh. Hai trong bốn đại nguyện của người Phật tử Đại thừa là: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, chúng sanh vô lượng thệ nguyện độ”. Như vậy quan niệm Phật tử tu theo pháp môn Tổ sư thiền thì hai vấn đề này như thế nào?

Theo ý nghĩ riêng con dù tu Tổ sư thiền, không phân biệt xuất gia hay tại gia, đều học hỏi Phật pháp nghiên cứu kinh điển, để đi đúng đường đúng hướng rồi chỉ dẫn cho người đi theo sau. Người Phật tử nói tu Tổ sư thiền hay lắm, bảo là tham đi, không cần tìm hiểu thiền là gì? Vì tìm hiểu là bộ óc. Nếu không cần biết Tổ sư thiền là gì, yếu chỉ thế nào, tác dụng ra sao, mà cứ nhắm mắt tu theo, có phải tu mù không! Như Tổ sư nói “tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách”. Kính xin Thiền sư khai thị?

Đáp:

Phật pháp có Giáo môn và Thiền môn, Giáo môn là nghiên cứu kinh điển rồi theo trong kinh điển thực hành, biết tới đâu thực hành tới đó. Tôi hoằng dương thuộc về Thiền môn, Thiền môn là muốn phát hiện bản thể giác tánh của mình (bản tâm); bản thể cùng khắp không gian thời gian, tất cả lời nói kinh điển đều bao gồm trong đó. Tại sao? Vì bản thể cùng khắp không gian thì không có cái nào ở ngoài không gian, tất cả lời nói trong kinh điển đều ở trong bản tánh mình sẵn có.

Trước Phật Thích Ca không có kinh Phật, Phật Thích Ca ngộ rồi nói ra, đời sau ghi lại lời Phật mới thành kinh. Nếu ngộ được bản tâm của mình thì cũng nói ra thành kinh vậy. Kinh Phật nói không phải muốn tụng hay nghiên cứu, là muốn mình theo đó thực hành. Thí dụ Phật nói ăn cơm được no, làm sao mình kiếm được cơm rồi ăn; không phải đem lời của Phật tụng cho Phật nghe, cứ tụng “ăn cơm được no, ăn cơm được no”, vậy làm sao no được!

Hay là nghiên cứu trong cơm có bao nhiêu chất dinh dưỡng, có bao nhiêu vitamin, viết ra một cuốn sách rất hay; phân tích trong cơm bao nhiêu chất bổ, bao nhiêu vitamin, phân tích rất kỹ; nhưng không ăn, làm sao no được! Nếu mình tin lời Phật cứ ăn cơm thì được no, không có cơm phải đi kiếm cơm để ăn. Những người ăn cơm được chất bổ, nếu nhổ ra nước miếng cũng có chất bổ. Không nghiên cứu cũng ăn no được vậy, ăn vô thì tất cả dinh dưỡng là của mình.

Trước khi người ta chưa tin phải nhờ kinh điển để chứng tỏ, chứng tỏ lời của Phật không lừa gạt mình, mình mới chịu theo lời Phật mà thực hành, đó là cách tu của Giáo môn. Nhưng tụng niệm, nghiên cứu cũng cần phải thực hành mới được. Còn Thiền môn không tụng niệm, không nghiên cứu, chỉ thực hành liền được kết quả mau hơn; lại phát hiện cái của mình đã sẵn có, không có qua bộ óc, nhưng cũng làm xong công việc dùng bộ óc.

Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa, Phật nói trong kinh đó đều là phá tư tưởng chấp thật, để phát hiện của mình sẵn có, chứ không phải nói giáo lý cao siêu để nghiên cứu. Đó là nhiều người không biết, hiểu lầm, tưởng là học giáo lý mới biết giáo lý. Những giáo lý đó là phá chấp thật của mình.

Như vừa rồi tụng Bát Nhã Tâm Kinh là vô ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), vô lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý), vô lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), vô lục thức (từ nhãn thức cho đến ý thức giới), vô khổ, tập, diệt, đạo (Tứ diệu đế), vô thập nhị nhân duyên (từ vô minh đến lão tử), Trí huệ của Bồ tát cũng vô, đều dùng chữ vô để phá tư tưởng chấp thật của mình.

Bởi chấp thật nên chướng ngại cái dụng sẵn có của mình, nếu ngộ được bản tâm thì tự động dùng ra. Như ánh sáng đèn cùng khắp không gian thời gian, bản thể giác tánh cũng cùng khắp không gian thời gian. Bao nhiêu cây đèn, đèn lớn đèn nhỏ, mỗi cây đèn đều phát ra ánh sáng; nhưng đều cùng chung một ánh sáng, không thể phân biệt ánh sáng nào thuộc cây đèn nhỏ, ánh sáng nào thuộc cây đèn lớn.

Vô lượng vô biên chúng sanh, mỗi người đều phát huy năng lực của mình sẵn có, mà cùng chung một hạnh phúc, không phân biệt người cao người thấp, người lớn người nhỏ; cũng như nhiều đèn cùng chung một ánh sáng vậy. Lúc đó khoa học mới đem hạnh phúc cho loài người, mà không có tai họa, không có cái khổ. Đó là mục đích Phật độ chúng sanh.

Mặc dù Thiền tông không học kinh điển, nhưng đi đúng theo kinh điển, tức là thực hành đúng theo lời dạy trong kinh điển, chứ không phải khác hay nghịch với kinh điển; chỉ là cách thực hành khác. Phật vì trình độ chúng sanh muôn ngàn sai biệt, cho nên Phật thuyết 84.000 pháp môn để thích ứng căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh. Nhưng bất cứ pháp môn nào, mục đích cuối cùng cũng giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại. Bản tánh của mình sẵn là như vậy.

Nếu mình theo lời Phật dạy sẽ phát hiện được bản tánh cùng khắp không gian thời gian, vốn hạnh phúc, không còn khổ; đó mới là lòng từ bi của Phật, chứ không phải chấp theo lời nói của Phật rồi tụng cho Phật nghe hay nghiên cứu lời nói của Phật có chân lý trong đó, ấy là sai lầm, nghịch với ý của Phật.

Hỏi:

Theo thiển ý của con, nếu không đi học Phật pháp, thấy rằng theo pháp Tổ sư thiền hay, đem lại hạnh phúc cho tự thân. Con nghĩ rằng phải có bổn phận truyền lại cho những người sau, mà Thầy và Tổ đã dạy muốn cho mọi người được an lạc hạnh phúc, đó cũng là cách trả ơn Thầy với Tổ, như thế Phật giáo mới trường tồn và pháp môn không bị gián đoạn. Kính xin Thầy khai thị?

Đáp:

Truyền dạy là tất nhiên rồi! Gọi là nối tiếp huệ mạng của Phật. Phật tử quy y Tam bảo, vậy Tam bảo là gì? Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Thế nào gọi là Phật bảo? Chữ Phật là tiếng Ấn Độ, dịch là giác ngộ; tức là tất cả chúng sanh phải minh tâm kiến tánh (giác ngộ), mới được giải thoát tất cả khổ, cũng như người trong chiêm bao chịu đủ thứ khổ; từ trong chiêm bao được thức tỉnh thì khổ trong chiêm bao tự dứt, trong chiêm bao thức tỉnh là giác ngộ. Cho nên, Phật muốn mỗi chúng sanh đều được giác ngộ, không phải thành một thần linh.

Thế nào gọi là Pháp bảo? Muốn giác ngộ giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại, phải có phương pháp; phương pháp đó đưa mình đến chỗ giác ngộ gọi là Pháp bảo. Phật nói trong kinh điển có 84.000 pháp môn, nhưng Phật không có trực tiếp truyền dạy; Phật trực tiếp truyền dạy Tổ sư thiền gọi là pháp thiền trực tiếp truyền đến ngày nay. Đó là Tổ sư thiền mà tôi đang hoằng dương.

Thế nào gọi là Tăng bảo? Chữ Tăng tiếng Ấn Độ gọi là Tăng già, dịch là hòa hợp chúng; tức là theo quy định từ 4 vị tu sĩ Phật giáo trở lên hòa hợp lại mới thành Tăng, nói theo danh từ gọi là Tăng đoàn. Tại sao nói Tăng cũng là bảo? Nếu chỉ có Phật bảo, Pháp bảo, không có Tăng bảo từ đời từ đời truyền xuống để trực tiếp giáo chúng sanh, thì có Phật bảo, Pháp bảo vô dụng, Phật pháp cũng tiêu diệt.

Cho nên 3 thứ bảo, cần nhất là Tăng bảo. Do có Tăng bảo thì Phật pháp mới thường trụ tại thế gian, rồi giáo hóa người thế gian giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại. Tu sĩ đều có bổn phận đó, đem Phật bảo, pháp bảo để truyền dạy cho chúng sanh. Vì vậy, có nói “hạt gạo của thí chủ, lớn bằng núi tu di; nếu không tu giải thoát, mang lông đội sừng trả”. Chúng tôi là tu sĩ thọ của cúng dường mười phương, phải có bổn phận đem Pháp bảo để truyền dạy cho chúng sanh, để nối tiếp huệ mạng của chư Phật.

Nhưng phải hoằng dương chánh pháp, pháp này giác ngộ giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại mới đúng. Nếu dạy người ta chỉ tụng niệm hay nghiên cứu, như nghiên cứu hạt gạo mà không ăn thì không no; người khác ăn là chất bổ của họ, không phải của mình. Nghe lời Phật bảo nên ăn, chứ không ăn thì không no; con có hiếu ăn giùm cho cha mẹ không được, hay cha mẹ thương con không thể ăn giùm cho con. Người nào ăn người ấy no.

Cho nên, lời Phật dạy rất đúng, rất có lợi ích, đưa mình đến giải thoát tất cả khổ được tự do tự tại. Nhưng mình phải thực hành mới được, chứ theo trong kinh điển để nói không có lợi ích, hay là theo trong kinh điển để nghiên cứu biết để dạy học trò, học trò biết rồi dạy học trò thì tác dụng giải thoát không còn, đối với Phật pháp cũng không có lợi ích. 

Cần nhất là giữ chánh pháp đưa mình đến tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ; đó mới là mục đích chánh của Phật Thích Ca để độ chúng sanh, không phải mình học biết giáo lý chứa đầy bụng để làm thầy dạy lại học trò; hay thuyết pháp cho người ta nghe, mà không thực hành làm sao có lợi ích! Như nói ăn mà không ăn thì không no.

Hỏi:

Tham Tổ sư thiền là đến ngộ, vậy Thượng tọa cho biết khi ngộ rồi thì hành giả thấy gì làm gì lúc còn sống, thấy gì làm gì sau khi chết?

Đáp:

Lịch sử Thiền tông Trung Quốc có 7.000 Tổ kiến tánh được sanh tử tự do, những người đó có người làm vua, sau khi kiến tánh cũng làm vua; thừa tướng kiến tánh rồi vẫn làm thừa tướng, thượng thư (bộ trưởng) kiến tánh rồi vẫn làm thượng thư; cho đến người dân, bà già, tay bưng, vai gánh đi rao ngoài đường đều kiến tánh. 

Có một Thiền sư ở trên núi kiến tánh được sanh tử tự do, tiếng tăm truyền tới kinh thành, vua nghe rồi sai quan lớn lên núi thỉnh Thiền sư về kinh thành để vua hỏi pháp. Thỉnh một lần Ngài không đi, thỉnh hai lần cũng không đi; vua có oai quyền, đến lần thứ ba vua phát giận, nói với quan lớn rằng: nếu kỳ này thỉnh Thiền sư không đi thì đem cái đầu ông ấy về kinh thành.

Quan lớn lên núi nói với Thiền sư: kỳ này lại khác hơn hai kỳ trước, hai kỳ trước không đi thì không có sao, kỳ này nếu thỉnh Ngài không đi là không được. Tại sao? Tôi không dám lấy đầu của Ngài, nhưng tôi về không, vua sẽ lấy đầu của tôi, Ngài hãy thương tôi mà đi.
Thiền sư nói: đi thì đi. Hỏi các đệ tử bây giờ tôi muốn đi rồi, có ai muốn theo tôi đi không?
Có một đệ tử ra nói: con theo thầy đi.
Thiền sư hỏi: một ngày đi được mấy dặm?
Đệ tử đáp: 50 dặm.
Thiền sư nói: không được.
Đệ tử khác nói: con theo thầy đi.
Thiền sư hỏi: một ngày đi bao nhiêu dặm?
Đệ tử đáp: 70 dặm.
Thiền sư nói: không được.
Có đệ tử khác nữa nói: con theo thầy đi được.
Thiền sư hỏi: một ngày đi bao nhiêu dặm?
Đệ tử đáp: 90 dặm.
Thiền sư nói: không được.
Người này không được, người kia cũng không được; cuối cùng thị giả của Thiền sư nói: con theo thầy đi được.
Thiền sư hỏi: một ngày đi bao nhiêu dặm?
Thị giả đáp: không biết, thầy đến đâu thì con đến đó.
Thiền sư nói: vậy là được.

Thiền sư ngồi ngay lại tịch liền và Thị giả đứng một bên cũng tịch luôn, tịch là người đời cho là chết. Quan lớn thấy hoảng sợ, chứng tỏ oai quyền của vua chỉ dùng cho người thường, dùng cho Thiền sư thì không được. Bởi vì Thiền sư sanh tử tự do, nói đi là đi liền.

Hỏi: 

Khi mình mạnh khỏe thì tinh thần cao có thể không sợ chết, nhưng lúc đau nặng hoặc trước giờ chết thì tinh thần xuống thấp nên thấy sợ lắm. Vậy tham Tổ sư thiền có giúp được qua cái sợ này không?

Đáp:

Bát NHã Tâm Kinh nói “vô lão tử diệc vô lão tử tận”, không có già không có chết, làm sao còn sợ gì nữa! Vì mình chấp thật có sanh tử nên sợ chết, nếu mình tin lời Phật nói vốn không có sanh tử thì không sợ chết. Nhưng Phật nói trong kinh không có sanh tử, sự thật sanh tử rõ ràng, người nào cũng thấy có sanh tử. Như tôi già rồi thì cái tử sẽ đến, làm sao không có sanh tử? Phật có 4 thí dụ trong kinh Viên Giác để chứng tỏ tại sao mình có sanh tử, tôi gom lại thành một thí dụ.

Tâm mình hoạt động không ngừng, tự nhiên thấy có sanh tử; như thân mình xoay sẽ thấy căn nhà xoay. Trong Kinh nói không có sanh tử cũng không có sanh tử hết, sanh tử hết là Niết bàn; vốn không có sanh tử làm sao có sanh tử hết! Như căn nhà vốn không có xoay, làm sao có căn nhà ngưng xoay? Căn nhà xoay và ngưng xoay đều do thân mình xoay sanh ra cảm giác sai lầm mà thấy, thật ra không có căn nhà xoay và ngưng xoay.

Nếu tâm ngưng hoạt động thì sanh tử luân hồi cũng ngưng. Pháp của Phật Thích Ca từ Tiểu thừa đến Đại thừa, dạy ngưng tâm hoạt động thì sanh tử tự dứt, tức muốn mình trong chiêm bao thức tỉnh, là sanh tử luân hồi trong chiêm bao tự tiêu. Cho nên, tham thiền phát hiện bản thể của mình cùng khắp không gian thời gian, vốn không có sanh tử tự nhiên không còn sợ sanh tử.

Hỏi:

Một người không có gia đình, không có trách nhiệm đến vợ con, lúc chết ít sợ hơn người có gia đình có trách nhiệm; vì người có gia đình có trách nhiệm sợ sau khi mình chết không ai lo cho vợ con. Con nghĩ một phần lớn cái sợ lúc sắp chết của người có gia đình có trách nhiệm là cái sợ này, vậy làm sao giúp được qua cái sợ đó?

Đáp:

Vì chấp thật sanh tử nên có cái sợ đó, Phật đã dùng nhiều thứ phương tiện, dùng những chuyện ngoài đời mình hiểu biết để chứng tỏ sanh tử vốn không thật. Nếu đã biết sanh tử không thật thì ở trong hoàn cảnh nào có trách nhiệm hay không trách nhiệm đều không sợ. 

Như Thiền sư sắp chết, mời các môn đồ đãi tiệc chay, ăn xong tự mình vô trong hòm nằm xuống, bảo đệ tử đóng đinh đem đi thiêu. Đệ tử thấy Thầy không bệnh, mà khi không vô trong hòm bảo đem đi thiêu; như vậy ai đâu có dám! Các đệ tử không tin.

Vài ngày sau đệ tử lén mở nắp hòm xem thì Thiền sư ngồi dậy mắng các đệ tử: các ngươi theo tôi nhiều năm, sao không tin lời của tôi! Nếu tôi sanh tử không tự do, làm sao dám vô trong hòm bảo các ngươi đóng đinh đem đi thiêu? Các ngươi ngu si quá! Bây giờ đãi tiệc lại, gọi là tiệc ngu si. Ăn xong cũng vô trong hòm nằm, bảo các đệ tử: đậy nắp hòm lại đóng đi đem đi thiêu, nếu người nào mở nắp hòm thì không phải đệ tử của tôi.

Đệ tử đóng đinh nắp hòm lại đem đi thiêu, nếu sanh tử không tự do làm sao Ngài dám làm vậy! Mình có thực hành tự nhiên không có sợ, đạt đến chỗ sanh tử tự do. Mình không thực hành thì không chứng tỏ, mà chỉ nghe người ta nói nên phải sợ.

Đang nhắm mắt chiêm bao tiếp xúc cái tách, cái bình, cái bàn… đều có thật; tiếp xúc nóng lạnh đều biết, bị người ta đánh cũng biết đau; trong chiêm bao có thiện tri thức giải thích cái bàn, cái bình… đều không thật; luôn cả thân ông cũng không thật, người đang chiêm bao không tin. Khi thức tỉnh chiêm bao thấy những việc trong chiêm bao không còn.

Cho nên, tự mình phải thức tỉnh, Phật dạy mình ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh; nếu tham thiền được minh tâm kiến tánh thì mở mắt chiêm bao thức tỉnh, mới chứng tỏ lời Phật không có lừa gạt mình. 

Hỏi:

Kiếp trước làm ác nên kiếp này phải trả quả, nếu vậy chấp nhận; nhưng không thấy kiếp trước, mà kiếp này trả quả là vô lý. Vậy làm sao biết kiếp trước và kiếp này có liên quan?

Đáp:

Phật pháp nói nhân quả là tam thế nhân quả (quá khứ, hiện tại, vị lai), thường thường khi người chết thì chuyện kiếp trước quên; nhưng cũng có người nhớ chuyện kiếp trước.

Đừng nói không thấy chuyện kiếp trước mà cho là không có, như cha mẹ, ông bà nội thì mình biết, còn ông bà nội của ông bà nội thì mình có biết không? Không biết. Không biết mà nói không có làm sao đúng! Vì mình thấy nhiều nhất được 5 đời trước hay 5 đời sau, còn đời thứ 6 không thấy cho là không có thì không đúng. Có cái thấy và không thấy, những cái mình thấy đâu phải đúng!

Như thấy cái bàn yên tịnh, nhưng khoa học chứng tỏ cái bàn này đang động; cái bàn có 2 thứ động: theo quả đất xoay chuyển mà động và các vật chất do nhiều nguyên tử tựu lại thành. Mỗi hạt nguyên tử ở chính giữa có trung tử, chu vi có nhiều điện tử, ngày đêm xoay không ngừng xung quanh trung tử, nó chuyển động nhưng mình không thấy; con mắt nhìn không thấy, nhưng dùng kính hiển vi sẽ thấy. Nếu tin con mắt thấy cho là thật, làm sao đúng với sự thật! Nhiều cái biết của bộ óc không thể đúng.

Hỏi:

Muốn tu thiền thì tâm phải tịnh, không màng thế sự, suy nghĩ, tính toán, bon chen. Nhưng mới ban đầu tu làm sao được như thế, dù rằng nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở cũng phải lo. Kính xin Thiền sư chỉ giáo được chu toàn?

Đáp:

Vua kiến tánh vẫn làm vua, thừa tướng kiến vẫn làm thừa tướng, thượng thư kiến tánh vẫn làm thượng thư… nghề nào cũng theo nghề đó, chứ không phải bỏ nghề mà đi tu mới được kiến tánh. Pháp môn Tổ sư thiền do Phật Thích Ca đích thân truyền, chỉ là 4 chữ “từ nghi đến ngộ”. Nghi là nhân, ngộ là quả; có nghi sẽ có ngộ, mình chỉ nhờ câu thoại đầu khởi nghi tình thì đi đứng nằm ngồi đều là thì giờ để mình tham, không phải bỏ nghề hay tìm một chỗ vắng lặng ngồi tham.

Nhưng mình phải tập lần lần, không phải bước đầu tiên tham không gián đoạn. Ngày đêm có 24 tiếng đồng hồ, bắt đầu tập nhiều nhất là một tiếng, 23 tiếng bị gián đoạn; nhưng tập được một thời gian giảm bớt sự gián đoạn còn lại 22 tiếng, tập thời gian nữa còn 21 tiếng, cứ như thế đến 24 tiếng tham được liên tục, chỉ có nghi tình, lúc đó gọi là thoại đầu.

Bây giờ nói tham thoại đầu nhưng chưa đến thoại đầu, đến thoại đầu là câu thoại tự mất là sắp kiến tánh; lúc ấy muốn bỏ nghi tình cũng không bỏ được và muốn không kiến tánh cũng không được, gặp cơ duyên thì nghi tình tan rã được kiến tánh. Mình cần phải đi, có đi mới có đến; nếu không đi thì không đến, đi nhanh đến mau, đi chậm đến lâu.

Hỏi:

Người tu pháp môn Tịnh độ khi chết vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, còn pháp môn Tổ sư thiền tham chưa ngộ, chết rồi gặp lại pháp môn Tổ sư thiền không?

Đáp:

Ở Việt Nam tôi thường lấy Chợ Lớn đi Sài Gòn để thí dụ, mục đích kiến tánh như Chợ Lớn đi Sài Gòn. Chợ Lớn đến Sài gòn là 100 bước, nếu kiếp này mình đi 5 bước thì kiếp sau đi thêm 95 bước; kiếp này đi 50 bước thì kiếp sau đi thêm 50 bước, kiếp này đi 99 bước thì kiếp sau đi thêm một bước; tức là có nhân sẽ có quả, tham thiền là gieo chánh nhân nên chánh quả sẽ đến. Vì pháp môn tham thiền này là do Phật Thích Ca đích thân truyền, thuộc về chánh nhân.

Hỏi:

Trợ niệm có giúp ích gì cho người lâm chung tu Tịnh độ?

Đáp:

Muốn giải quyết vấn đề sanh tử thì phải giải quyết trước khi chết, nếu tới lâm chung mà nhờ người khác giúp mình thì rất khó hy vọng. Bất cứ tu pháp môn nào cũng phải trước khi chết giải quyết trước. Những người còn sống có lục căn lanh lợi, mà thuyết pháp họ còn không nghe, giải thích cũng còn không tin, huống là người chết. Người sống thường tụng kinh, nhưng không thực hành theo lời Phật dạy; đến khi chết, mình giúp cũng không được.

Chết rồi thường thường đi đầu thai liền, người thường cho chết biến thành ma quỷ, đó là không đúng. Chết là đi đầu thai, tạo nghiệp cõi trời sanh cõi trời, tạo nghiệp người sanh cõi người, tạo nghiệp tu la sanh cõi tu la, tạo nghiệp súc sanh sanh cõi súc sanh, tạo nghiệp quỷ sanh cõi ngạ quỷ, chứ không phải chết rồi thành quỷ, tạo nghiệp địa ngục sanh cõi địa ngục, là theo nghiệp đã tạo mà đi đầu thai; tức là chết cũng là lúc đó đi đầu thai, thường thường không có thân trung ấm.

Thân trung ấm là đặc biệt, có nghiệp thiện và nghiệp ác bằng nhau, chưa có thể phân biệt được sanh thiện đạo hay ác đạo. Lục đạo có tam thiện đạo (cõi trời, cõi người, cõi a tu la), có tam ác đạo (súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục). Nếu thiện nhiều hơn ác một chút thì sanh thiện đạo, ác nhiều hơn thiện một chút thì sanh ác đạo. Như tôi kể chuyện Ung Bá Huy có thân trung ấm, ông nổi niệm ác một chút là ăn cắp nên đầu thai thành heo, nổi niệm không ăn cắp một chút thì sanh con người.

Con cháu muốn cứu người thân của mình đã chết, đừng sát sanh để cúng thì có ích cho người chết; không đốt vàng mã, vì những thứ này người ta quan niệm xuống âm phủ dùng. Nếu sanh tam thiện đạo không có dùng vàng mã, mà đốt vàng mã là muốn cho người thân mình ở âm phủ dùng để chịu khổ; chuyện này thật ngu si nhưng người ta không biết, cứ làm theo truyền thống của thần giáo ngày xưa, chứ Phật giáo không có những thứ này.


----o0o---

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 31850)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 41556)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
02/01/2011(Xem: 10272)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
31/12/2010(Xem: 2361)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
30/12/2010(Xem: 2582)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọng và tri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lực và căng thẳng cho chính bản thân mình.
23/12/2010(Xem: 2775)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
17/12/2010(Xem: 20902)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
16/12/2010(Xem: 2996)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt được giác ngộ.
15/12/2010(Xem: 7445)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
14/12/2010(Xem: 16308)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567