Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

05/02/202516:37(Xem: 33)
Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

buddha and lotus

 

 

Câu chuyện về các ước mơ

không thực hiện được

 

Hoang Phong

 

Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.

 

Mẹ tôi rời làng quê nơi miền Bắc, khăn gói theo chồng vào Nam từ tiền bán thế kỷ hai mươi, cha mẹ tôi sinh ra tôi trong một tỉnh lỵ nhỏ bé, một nơi tận cùng của sông nước miền Nam. Sau này theo lời kể chuyện lại của mẹ thì khi mới vào Nam mẹ mặc áo tứ thân, quấn khăn lươn quanh đầu, mọi người nhìn mẹ chăm chăm. Rất sớm sau đó thì mẹ bỏ chiếc áo tứ thân, mặc áo bà-ba, quần lãnh đen, quấn tóc thành một búi sau gáy. Thế nhưng mỗi khi mẹ nói chuyện với giọng Bắc kỳ, hở hai hàm răng đen, thì mọi người nhìn mẹ một cách thích thú, trẻ con thì quây quanh với vẻ tò mò. Khi lớn thêm và lúc bắt đầu biết nhận xét thì tôi nhận thấy quả đúng là như thế, mẹ tôi trông giống hệt một phụ nữ Nam Bộ, tóc trên đỉnh đầu rẽ sang hai bên tạo thành một đường ngôi từ trán lên đỉnh đầu, búi tóc sau gáy bọc trong một tấm lưới mỏng màu đen, thỉnh thoảng mẹ tôi còn bôi lên tóc một tí dầu dừa khiến tóc bóng mượt. Giọng nói và hai hàm răng đen hạt huyền của mẹ tôi không còn mấy ai để ý đến nữa.  

 

Đối với riêng tôi thì tôi vẫn nhận thấy nơi mẹ tôi có một chút gì đó khang khác với những người phụ nữ chung quanh. Mẹ thường nói : ‘Mẹ cố gắng làm giống như mọi người, thế nhưng cái giọng Bắc kỳ và hai hàm răng đen thì mẹ chịu, không làm khác hơn được’. Thế nhưng những gì khang khác mà tôi muốn nói không phải là giọng nói Bắc kỳ và hai hàm răng đen của mẹ, mà là một chút gì đó bên trong tâm hồn của mẹ. Mẹ tôi đến với cái xứ Nam kỳ này từ một góc quê hương thật xa, nghèo nàn và cổ kính, ảnh hưởng nặng nề bởi nền tư tưởng Khổng giáo. Vào những đêm nhớ nhà, mẹ thường thuật lại cho tôi nghe gốc gác của cha tôi và quãng đời con gái của mẹ nơi làng quê bên ông ngoại và bà ngoại tôi.  

 

Cha mẹ tôi cả hai cùng sinh ra đời vào thập niên đầu thế kỷ hai mươi, tức là cách nay đã hơn một thế kỷ. Mẹ tôi lớn hơn cha tôi ba tuổi. Vào thời bấy giờ việc gả bán là chuyện của cha mẹ và những người mai mối. Trong gia đình khi có một đứa con trai sắp lớn thì cha mẹ tìm vợ cho con mình, nhưng phải tìm một người con gái xốc vác, đảm đang để quán xuyến việc nhà và việc đồng áng. Vì vậy vợ lớn hơn chồng từ năm đến sáu tuổi, hoặc hơn thế nữa, là chuyện thường tình và cũng là thói tục vào thời bấy giờ. Ngoài bổn phận làm dâu, mẹ tôi còn phải gánh hai thúng hàng xén buôn bán ở các chợ làng để nuôi cha tôi ăn học ở Hà Nội. Mẹ tôi thuật lại là đời sống nơi thôn quê cực khổ lắm, cơm độn ngô, độn sắn, mỗi năm chỉ được ăn thịt một lần vào ngày Tết, họa hoằn lắm là vào những ngày giỗ lớn trong họ. Thế nhưng chỉ có người đàn ông chủ gia đình là được mời, mỗi người cầm theo một cái que. Bữa ăn chia ra thành nhiều mâm, mỗi mâm bốn người, rau canh thì chia nhau ăn và húp, đĩa xôi thì nắm lại thành bốn nắm, đĩa thịt cũng chia ra làm bốn, mỗi người cắm xôi và thịt vào chiếc que của mình mang về nhà cho vợ con.

 

Mẹ tôi lớn lên trong một gia đình nho giáo. Ông ngoại tôi là thầy đồ, thế nhưng là con gái mẹ tôi không được học. Chữ nghĩa là của nam giới, con gái học ngôn hạnh, gánh vác việc nhà. Sau này, khi vào Nam, cha tôi có mua cho mẹ tôi một quyển sách tập đọc. Tự học mẹ tôi biết đọc và cả biết viết. Thế nhưng những gì mà tôi muốn nói là sau đó mẹ tôi thuộc lòng cả ba tập thơ, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm và Đoạn Trường Tân Thanh. Có những đêm mẹ tôi hát lên những vần thơ trong các tập thơ ấy. Thỉnh thoảng mẹ tôi bất chợt hỏi tôi thích đoạn nào trong truyện Kiều thì mẹ tôi sẽ ngâm lên đoạn ấy. Cả câu chuyện tôi cũng không hiểu, huống hồ là từng đoạn một. Tôi nghĩ rằng mẹ hỏi tôi, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách mà mẹ tôi tự hỏi chính mình, đồng hóa mình với các nỗi niềm khắc khoải và đau thương, và cả các ước mơ của các nhân vật trong truyện. Mỗi khi nhận thấy nơi mẹ thoang thoáng một chút lo âu nào đó thì tôi cũng thấy mẹ mang tập truyện Kiều ra để bói.

 

Ngoài những gì khang khác trên đây, tôi còn nhận thấy các sự khang khác sâu kín hơn trong lòng của mẹ. Mẹ thường nói lên với tôi những ước mơ của mẹ, mẹ mong ước một ngày nào đó được trở về làng quê, cắm một nén hương lên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi. Ước mơ đó tuy bình dị và nhỏ nhoi thế nhưng lại là cả một giấc mơ to lớn bên trong lòng mẹ, ngủ yên đã từ bao năm trong tâm hồn của mẹ. Ước mơ đó sẽ không bao giờ thức dậy để trở thành sự thực với mẹ tôi trong thế giới này. Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt trên quê hương tôi, trong suốt kiếp sống của mẹ và của cả cha tôi.

 

Thế nhưng trong cuộc sống hằng ngày, mẹ tôi cũng có những ước mơ thật nhỏ nhoi, bình dị và rất con người, những ước mơ mà mẹ thừa hưởng từ nền giáo dục gia đình và xã hội từ thuở ngày còn bé, một nền giáo dục đặt nặng sự nhẫn nhục, sự hy sinh, sức chịu đựng và quên đi chính mình. Những gì còn lại trong lòng mẹ phải chăng cũng chỉ là các ước mơ mà thôi. Các ước mơ ấy là các ước mơ mà tôi muốn nói đến trong câu chuyện này. Các ước mơ ấy đã ngủ yên từ lâu trong lòng mẹ, thế nhưng lại cựa mình thức dậy, ray rứt và xao xuyến trong lòng tôi khi tôi viết các dòng này.  

 

Tuy vậy cũng có những lúc mẹ tôi rất vui, không ngâm thơ, không bói Kiều, mà hát lên những bài hát thuở ngày con gái nơi làng quê của mẹ, các bài hát trống quân, quan họ, hát đối, hát chèo… mà trai gái trong làng thường hát với nhau nơi sân đình vào những đêm trăng sáng. Qua các tiếng hát đó, tôi thấy hiện lên trong tâm hồn mẹ cả một khung trời tuổi trẻ bên ông ngoại và bà ngoại tôi, tận làng quê nơi miền Bắc xa xôi. Phải chăng đấy là những lúc mà mẹ tôi sống lại với những ước mơ say giấc trong lòng mẹ từ lâu, vụt thức dậy và trở thành sự thực. Tôi hình dung mẹ vừa cắm xong một nén hương trên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi, hoặc đang nôn nóng tối hôm nay trăng rằm sẽ ra sân đình cùng hát với trai gái trong làng. Các giây phút vui sướng đó thật ra chỉ là các ảo giác trong ký ức của mẹ, hiện lên từ các ước mơ của mẹ, những ước mơ mà mẹ sẽ không bao giờ có thể biến chúng trở thành sự thực được. Ảo giác hiện lên từ ước mơ, thực tế biến ảo giác trở thành ước mơ là như vậy.

 

Thế nhưng trong cuộc sống thường nhật mẹ cũng có những ước mơ nhỏ nhoi và bình dị hơn nhiều, nhất là có thể thực hiện được. Thật vậy, ước mơ phải chăng cũng chỉ bắt đầu bằng một chút gì đó thật nhỏ nhoi, chẳng hạn như một ước muốn thoáng qua, trước khi trở thành một ước mơ. Mẹ tôi là một con người tương tự như tất cả mọi người, có những lúc mẹ ước được ăn một món ngon nào đó. Các ước muốn nhỏ nhoi, tự nhiên và bình thường đó của mẹ thường bất chợt hiện lên trong tôi mỗi khi tôi nghĩ đến kiếp người của mẹ, một kiếp người chỉ biết hy sinh vì chồng con và quên cả chính mình.

 

Mẹ tôi thường nói với tôi một câu mà tôi không giờ quên : ‘Đi chợ, lắm khi mẹ muốn ăn quà, thế nhưng mẹ không thể nào ăn một mình, không có cha và các con cùng ăn’. Mẹ tôi thường nói câu ấy với tôi trong những lúc thật bất ngờ, không liên hệ gì đến việc ăn uống cả. Một hôm sau khi đi chợ về, mẹ thuật lại với tôi một câu chuyện khiến tôi rất xúc động, rưng rưng nước mắt :Con biết không, ở chợ có đủ các gánh hàng ăn, nào là bánh cuốn, bún riêu, cháo lòng, bánh xèo…, thế nhưng chưa bao giờ mẹ ngồi ăn một mình ở chợ. Hôm nay bụng đói, đi ngang hàng bánh canh, gạch cua nổi váng trong nồi bánh canh của bà bán hàng, khiến mẹ thèm. Suýt tí nữa là mẹ ngồi xuống ăn, thế nhưng mẹ cưỡng lại được, mẹ nhìn đi nơi khác. Về đến nhà trông thấy mặt con mẹ rất mừng, mẹ hiểu rằng mẹ không phải là người tham ăn’.

 

Không cần mẹ nói tôi cũng biết mẹ là người không tham ăn. Trên mâm cơm, trong tộ canh chua nếu có cặp trứng cá lóc, thì đấy là phần của cha, nếu cha không ăn thì mẹ lấy đũa xắn ra chia cho các con. Miếng ngon trên mâm, không bao giờ mẹ gắp. Nhường nhịn miếng ăn trên mâm phải chăng là cách thể hiện kín đáo tình thương yêu của mẹ đối với chồng con ? Ước mơ trong lòng của một người mẹ thường rất âm thầm và yên lặng, khiến chúng ta không mấy khi nhận thấy, thế nhưng thật ra thì đấy là cả một sự hy sinh.

 

Sau mười-lăm-năm dạy học, tôi rời xa quê hương. Thế nhưng thật ra thì quê hương vẫn còn đó, vẫn còn nguyên, ít nhất là trong ký ức và tâm khảm tôi. Những gì mà tôi bỏ lại phía sau là một bầu không gian giả dối, một khung trời tư tưởng chật hẹp, tham lam và hung bạo. Sau vài năm học lại nơi xứ người, tôi tìm được công ăn việc làm trong một công ty dầu khí mang tầm vóc quốc tế. Ngoài công việc khảo cứu tôi còn được giao phó theo dõi các giếng khoan tầm khảo khắp nơi trên thế giới, từ trên vòng đai bắc cực đến các vùng sa mạc hoang vu, từ vùng vịnh Ba-tư giàu có đến các vùng rừng rậm Phi châu và cả các nước Á châu đa dạng và phức tạp, trong số đó kể cả quê hương tôi. Công việc rày đây mai đó tạo dịp cho tôi tiếp xúc với thiên nhiên và các dân tộc khác nhau, mở ra cho tôi một tầm nhìn bao quát hơn về thế giới này. Tầm nhìn đó không khỏi khiến tôi đôi lúc hồi tưởng lại quê hương tôi, dân tộc tôi và cả những kỷ niệm của riêng tôi vào những ngày thơ ấu.

 

Khung cảnh của cái tỉnh lỵ nhỏ bé nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, những khoảng thời gian êm ấm bên cạnh cha mẹ tôi và cả những giấc mơ ám ảnh tôi trong quá khứ vẫn còn in đậm trong ký ức. Tôi xin thuật lại câu chuyện về một ước mơ vụt hiện lên với tôi trong một bối cảnh thật bất ngờ, câu chuyện xảy ra cách nay đã gần bốn-mươi năm. Tôi được công ty giao phó theo dõi một giếng khoan trong eo biển Macassar thuộc lãnh thổ của xứ Indonesia. Tôi lấy máy bay từ Paris đến Singapore, sáng hôm sau lại lấy máy bay đi Jakarta, tại đây tôi phải đến trụ sở của công ty để tham khảo thêm tài liệu và thảo luận với các chuyên gia khác. Sáng hôm sau lấy máy bay đến tỉnh lỵ Palikpapan trên đảo Borneo, và sau đó lại chuyển sang trực thăng đưa tôi lên giàn khoan trên biển. Trong những lúc bận rộn vì công việc và căng thẳng vì trách nhiệm, tôi thường đánh mất hết các điểm tựa xúc cảm riêng tư nơi con người mình. Tuy nhiên trong những lúc thư giãn hơn, dù chỉ là ngắn ngủi, tôi vẫn cố gắng tìm lại những gì sâu kín trong lòng, hầu mang lại cho tôi một chút thăng bằng và yên lặng hơn trong tâm hồn mình.

 

Trong chuyến công tác đó, khi đến Singapore thì chi nhánh của công ty đã đặt phòng trước cho tôi tại một trong các khách sạn sang trọng nhất. Tối hôm đó tôi ngồi ăn trong nhà hàng ăn nơi tầng cao nhất của khách sạn. Khách đông, các cô hầu bàn ăn mặc đồng phục cũng đông. Trong số các người khách đang ăn thì duy nhất chỉ có tôi là ngồi lẻ loi, trước mặt là thức ăn và một lọ hoa. Một cô hầu bàn tiến đến bàn của tôi gợi chuyện, giải thích về các món ăn của Singapore, mô tả các sự sinh hoạt nơi thành phố này. Một cô hầu bàn thứ hai dường như trông thấy tình trạng khá tế nhị đó của cô thứ nhất, bèn tiến đến bên cạnh tôi, gợi chuyện và gắp thức ăn cho tôi. Hai cô hầu bàn giúp cho một khách ăn bớt lẻ loi là một hình thức lịch sự, một trách nhiệm đối với nghề nghiệp của mình, thế nhưng lại khiến tôi cảm thấy khá lúng túng. Vào đúng lúc đó vụt hiện lên trong tâm trí tôi hình ảnh của mẹ tôi đang đi ngang gánh hàng bánh canh trong khu chợ chồm hỗm. Bỗng nhiên tôi ước mong được đưa mẹ vào một khách sạn thật sang trọng tại Singapore, Bangkok hay Jakarta, để mẹ nghỉ ngơi một đêm trong cuộc đời mẹ, và cũng để mẹ thưởng thức một vài món ăn thật ngon. Tôi hình dung mẹ tôi với búi tóc sau gáy, mặc áo the đen, mang dép nhung thêu cườm, cùng với tôi bước vào cửa một khách sạn to lớn. Hai nhân viên gác cửa khẽ nghiêng người chào, kéo hai cánh cửa thật lớn đón rước mẹ con tôi.

 

Hình ảnh tưởng tượng bất ngờ đó khiến tôi rơm rớm nước mắt. Tôi vội cúi xuống cầm chiếc khăn ăn giả vờ lau miệng, thế nhưng thật ra là để chậm những giọt nước mắt lăn dài trên má. Một cô hầu bàn thấy tôi yên lặng cúi xuống, vội chúc tôi ăn ngon và rút lui, cô thứ hai cũng rút lui. Tôi ngồi thẫn thờ và đơn độc… Mẹ tôi mỗi năm cũng chỉ mặc áo dài một lần để lên chùa lễ Phật vào đêm giao thừa, và thật ra thì mẹ tôi cũng chỉ có một chiếc áo dài duy nhất bằng the đen, trước khi đi thì kéo đôi dép nhung đen thêu cườm dưới gầm chiếc tủ đứng, mỗi tay cầm một chiếc, đập đập vào nhau vài cái trước khi mang vào chân. Mẹ tôi là một phụ nữ quê mùa, bước chân vào một khách sạn sang trọng có thể không mang một ý nghĩa nào cả. Phải chăng cử chỉ không nhìn vào nồi bánh canh trong khu chợ chồm hỗm mới thật sự mang nhiều ý nghĩa hơn chăng, ít nhất là đối với mẹ ?

 

Mẹ tôi và tôi cùng sống trong những giấc mơ. Sự khác biệt trước nhất là các ước mơ nhỏ bé của mẹ từ những ngày xa xưa nay đã hóa thành to lớn và thiết tha trong tôi. Sự khác biệt sau đó là mẹ đã biến các ước mơ nhỏ bé của mẹ trở thành sự thực bên trong lòng mẹ, trái lại các ước mơ to lớn và thiết tha của tôi sẽ mãi mãi chỉ là ước mơ.  

 

Bures-Sur-Yvette, 04.02.25

 Hoang Phong

 

Chiều về chênh chếch đồi xa,

Nghiêng nghiêng giọt nắng hiên nhà nắng phai.

Chiều sa tím dãy đồi dài,

Tím màu mắt mẹ những ngày xa xưa.

 

Trước sân cành lá đong đưa,

Như ru nhịp võng mẹ đưa ngày nào.

Chiều buông nhớ mẹ nao nao,

Buông vào quá khứ chìm vào tuổi thơ.

 

Thời gian ngày bé hững hờ,

Trôi nhanh cuốn cả giấc mơ thật thà.

Mơ rằng khi lớn làm ra,

Xây nhà mẹ ở mua quà mẹ ăn.

 

Paris, 10.08.92


Giấc Mơ Thật Thà

Hồng Vân diển ngâm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2020(Xem: 6142)
Nghĩ cho cùng cuộc đời dài của con người chính là những bước đi - không hơn không kém. Đó là những bước khập khiễng từ khi lọt lòng mẹ cho đến các bước run rẩy trước khi bước vào quan tài. Điều quan trọng nhất là kẻ lữ hành phải luôn sáng suốt và lạc quan để nhận biết “mùa xuân phía trước”. Dầu sao đi nữa, dù muốn hay không mình vẫn phải bước đi.
08/08/2020(Xem: 6201)
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
08/08/2020(Xem: 7889)
Trong Kinh Pháp Cú có một số bài khá phong phú đề cao chánh pháp vì chánh pháp đóng một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm phát huy chánh kiến, tu tập trí tuệ, đưa người hành giả dần đến mục đích giác ngộ và giải thoát. Chánh pháp cũng giữ một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm hướng dẫn quần sinh. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Đức Phật trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Này A Nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa người khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ tựa.”
05/08/2020(Xem: 8038)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu? Đức Phật ôn tồn trả lời; Này A Nan, cũng như một cái cây, nếu nghiêng về phía nào, thì khi người ta đốn ngã nó sẽ đỗ về phía đó (trọng lực), một chúng sanh sau khi chết cũng sẽ theo nghiệp mà đi như thế ấy.
05/08/2020(Xem: 6983)
Đại dịch coronavirus bùng phát lần nữa tại Việt Nam, Hoa Kỳ và hầu hết các nước trên thế giới. Tính tới tuần lễ đầu tháng 8/2020, thế giới có gần 700,000 người chết vì đại dịch, trong đó Việt Nam có ít nhất 6 người chết. Vụ Thống kê Dân số và Lao động cho biết VN có hàng chục triệu người mất việc, giảm giờ làm, giảm thu nhập… Kinh tế suy sụp mọi mặt, đặc biệt thê thảm là các ngành du lịch, khách sạn, tiệm ăn, chợ búa, giao thông. Toàn dân đều bị ảnh hưởng --- kể cả tăng ni trong và ngoài nước, khi các khóa tu và khóa lễ hủy bỏ vì giãn cách xã hội, Phật tử không thể tới chùa được. Trong hoàn cảnh này, hạnh nguyện hộ trì và bố thí cần được thực hiện theo lời Đức Phật dạy để bảo vệ sáu phương: Bố thí tài vật (giúp dân vượt khó, cúng dường chư tăng, ba mẹ, thầy cô giáo…), bố thí sinh mạng (liều thân vào nơi hiểm nạn để cứu người, như lính cứu hỏa thời bình, như nhân viên y tế thời đại dịch vì chăm sóc bệnh nhân cũng là chăm sóc Đức Phật), và rồi tận cùng của hạnh bố thí là giải thoát.
04/08/2020(Xem: 7156)
“Khi tôi thức dậy vào mỗi buổi sáng, bị giằng xé giữa mong muốn cứu thế giới và thiên hướng thưởng thức nó” - E.B. White Đời sống tâm linh ban đầu có thể tập trung vào sự tự diễn biến, nhưng khi chánh niệm và từ bi tâm phát triển, chúng ta tự nhiên trở nên chú ý đến các giá trị của xã hội chung quanh chúng ta. Khi chúng ta thực hành như vậy, chúng ta có thể thấy lời nguyện phổ biến về hạnh phúc thông qua sự tham lam và chủ nghĩa tiêu dùng xa xỉ dư thừa ngày càng nông cạn và sai lầm. Trái tim của tôi trở nên thông minh hơn và hài lòng hơn.
03/08/2020(Xem: 6501)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 7168)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 9160)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 6682)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]