Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

05/02/202516:37(Xem: 66)
Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

buddha and lotus

 

 

Câu chuyện về các ước mơ

không thực hiện được

 

Hoang Phong

 

Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.

 

Mẹ tôi rời làng quê nơi miền Bắc, khăn gói theo chồng vào Nam từ tiền bán thế kỷ hai mươi, cha mẹ tôi sinh ra tôi trong một tỉnh lỵ nhỏ bé, một nơi tận cùng của sông nước miền Nam. Sau này theo lời kể chuyện lại của mẹ thì khi mới vào Nam mẹ mặc áo tứ thân, quấn khăn lươn quanh đầu, mọi người nhìn mẹ chăm chăm. Rất sớm sau đó thì mẹ bỏ chiếc áo tứ thân, mặc áo bà-ba, quần lãnh đen, quấn tóc thành một búi sau gáy. Thế nhưng mỗi khi mẹ nói chuyện với giọng Bắc kỳ, hở hai hàm răng đen, thì mọi người nhìn mẹ một cách thích thú, trẻ con thì quây quanh với vẻ tò mò. Khi lớn thêm và lúc bắt đầu biết nhận xét thì tôi nhận thấy quả đúng là như thế, mẹ tôi trông giống hệt một phụ nữ Nam Bộ, tóc trên đỉnh đầu rẽ sang hai bên tạo thành một đường ngôi từ trán lên đỉnh đầu, búi tóc sau gáy bọc trong một tấm lưới mỏng màu đen, thỉnh thoảng mẹ tôi còn bôi lên tóc một tí dầu dừa khiến tóc bóng mượt. Giọng nói và hai hàm răng đen hạt huyền của mẹ tôi không còn mấy ai để ý đến nữa.  

 

Đối với riêng tôi thì tôi vẫn nhận thấy nơi mẹ tôi có một chút gì đó khang khác với những người phụ nữ chung quanh. Mẹ thường nói : ‘Mẹ cố gắng làm giống như mọi người, thế nhưng cái giọng Bắc kỳ và hai hàm răng đen thì mẹ chịu, không làm khác hơn được’. Thế nhưng những gì khang khác mà tôi muốn nói không phải là giọng nói Bắc kỳ và hai hàm răng đen của mẹ, mà là một chút gì đó bên trong tâm hồn của mẹ. Mẹ tôi đến với cái xứ Nam kỳ này từ một góc quê hương thật xa, nghèo nàn và cổ kính, ảnh hưởng nặng nề bởi nền tư tưởng Khổng giáo. Vào những đêm nhớ nhà, mẹ thường thuật lại cho tôi nghe gốc gác của cha tôi và quãng đời con gái của mẹ nơi làng quê bên ông ngoại và bà ngoại tôi.  

 

Cha mẹ tôi cả hai cùng sinh ra đời vào thập niên đầu thế kỷ hai mươi, tức là cách nay đã hơn một thế kỷ. Mẹ tôi lớn hơn cha tôi ba tuổi. Vào thời bấy giờ việc gả bán là chuyện của cha mẹ và những người mai mối. Trong gia đình khi có một đứa con trai sắp lớn thì cha mẹ tìm vợ cho con mình, nhưng phải tìm một người con gái xốc vác, đảm đang để quán xuyến việc nhà và việc đồng áng. Vì vậy vợ lớn hơn chồng từ năm đến sáu tuổi, hoặc hơn thế nữa, là chuyện thường tình và cũng là thói tục vào thời bấy giờ. Ngoài bổn phận làm dâu, mẹ tôi còn phải gánh hai thúng hàng xén buôn bán ở các chợ làng để nuôi cha tôi ăn học ở Hà Nội. Mẹ tôi thuật lại là đời sống nơi thôn quê cực khổ lắm, cơm độn ngô, độn sắn, mỗi năm chỉ được ăn thịt một lần vào ngày Tết, họa hoằn lắm là vào những ngày giỗ lớn trong họ. Thế nhưng chỉ có người đàn ông chủ gia đình là được mời, mỗi người cầm theo một cái que. Bữa ăn chia ra thành nhiều mâm, mỗi mâm bốn người, rau canh thì chia nhau ăn và húp, đĩa xôi thì nắm lại thành bốn nắm, đĩa thịt cũng chia ra làm bốn, mỗi người cắm xôi và thịt vào chiếc que của mình mang về nhà cho vợ con.

 

Mẹ tôi lớn lên trong một gia đình nho giáo. Ông ngoại tôi là thầy đồ, thế nhưng là con gái mẹ tôi không được học. Chữ nghĩa là của nam giới, con gái học ngôn hạnh, gánh vác việc nhà. Sau này, khi vào Nam, cha tôi có mua cho mẹ tôi một quyển sách tập đọc. Tự học mẹ tôi biết đọc và cả biết viết. Thế nhưng những gì mà tôi muốn nói là sau đó mẹ tôi thuộc lòng cả ba tập thơ, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm và Đoạn Trường Tân Thanh. Có những đêm mẹ tôi hát lên những vần thơ trong các tập thơ ấy. Thỉnh thoảng mẹ tôi bất chợt hỏi tôi thích đoạn nào trong truyện Kiều thì mẹ tôi sẽ ngâm lên đoạn ấy. Cả câu chuyện tôi cũng không hiểu, huống hồ là từng đoạn một. Tôi nghĩ rằng mẹ hỏi tôi, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách mà mẹ tôi tự hỏi chính mình, đồng hóa mình với các nỗi niềm khắc khoải và đau thương, và cả các ước mơ của các nhân vật trong truyện. Mỗi khi nhận thấy nơi mẹ thoang thoáng một chút lo âu nào đó thì tôi cũng thấy mẹ mang tập truyện Kiều ra để bói.

 

Ngoài những gì khang khác trên đây, tôi còn nhận thấy các sự khang khác sâu kín hơn trong lòng của mẹ. Mẹ thường nói lên với tôi những ước mơ của mẹ, mẹ mong ước một ngày nào đó được trở về làng quê, cắm một nén hương lên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi. Ước mơ đó tuy bình dị và nhỏ nhoi thế nhưng lại là cả một giấc mơ to lớn bên trong lòng mẹ, ngủ yên đã từ bao năm trong tâm hồn của mẹ. Ước mơ đó sẽ không bao giờ thức dậy để trở thành sự thực với mẹ tôi trong thế giới này. Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt trên quê hương tôi, trong suốt kiếp sống của mẹ và của cả cha tôi.

 

Thế nhưng trong cuộc sống hằng ngày, mẹ tôi cũng có những ước mơ thật nhỏ nhoi, bình dị và rất con người, những ước mơ mà mẹ thừa hưởng từ nền giáo dục gia đình và xã hội từ thuở ngày còn bé, một nền giáo dục đặt nặng sự nhẫn nhục, sự hy sinh, sức chịu đựng và quên đi chính mình. Những gì còn lại trong lòng mẹ phải chăng cũng chỉ là các ước mơ mà thôi. Các ước mơ ấy là các ước mơ mà tôi muốn nói đến trong câu chuyện này. Các ước mơ ấy đã ngủ yên từ lâu trong lòng mẹ, thế nhưng lại cựa mình thức dậy, ray rứt và xao xuyến trong lòng tôi khi tôi viết các dòng này.  

 

Tuy vậy cũng có những lúc mẹ tôi rất vui, không ngâm thơ, không bói Kiều, mà hát lên những bài hát thuở ngày con gái nơi làng quê của mẹ, các bài hát trống quân, quan họ, hát đối, hát chèo… mà trai gái trong làng thường hát với nhau nơi sân đình vào những đêm trăng sáng. Qua các tiếng hát đó, tôi thấy hiện lên trong tâm hồn mẹ cả một khung trời tuổi trẻ bên ông ngoại và bà ngoại tôi, tận làng quê nơi miền Bắc xa xôi. Phải chăng đấy là những lúc mà mẹ tôi sống lại với những ước mơ say giấc trong lòng mẹ từ lâu, vụt thức dậy và trở thành sự thực. Tôi hình dung mẹ vừa cắm xong một nén hương trên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi, hoặc đang nôn nóng tối hôm nay trăng rằm sẽ ra sân đình cùng hát với trai gái trong làng. Các giây phút vui sướng đó thật ra chỉ là các ảo giác trong ký ức của mẹ, hiện lên từ các ước mơ của mẹ, những ước mơ mà mẹ sẽ không bao giờ có thể biến chúng trở thành sự thực được. Ảo giác hiện lên từ ước mơ, thực tế biến ảo giác trở thành ước mơ là như vậy.

 

Thế nhưng trong cuộc sống thường nhật mẹ cũng có những ước mơ nhỏ nhoi và bình dị hơn nhiều, nhất là có thể thực hiện được. Thật vậy, ước mơ phải chăng cũng chỉ bắt đầu bằng một chút gì đó thật nhỏ nhoi, chẳng hạn như một ước muốn thoáng qua, trước khi trở thành một ước mơ. Mẹ tôi là một con người tương tự như tất cả mọi người, có những lúc mẹ ước được ăn một món ngon nào đó. Các ước muốn nhỏ nhoi, tự nhiên và bình thường đó của mẹ thường bất chợt hiện lên trong tôi mỗi khi tôi nghĩ đến kiếp người của mẹ, một kiếp người chỉ biết hy sinh vì chồng con và quên cả chính mình.

 

Mẹ tôi thường nói với tôi một câu mà tôi không giờ quên : ‘Đi chợ, lắm khi mẹ muốn ăn quà, thế nhưng mẹ không thể nào ăn một mình, không có cha và các con cùng ăn’. Mẹ tôi thường nói câu ấy với tôi trong những lúc thật bất ngờ, không liên hệ gì đến việc ăn uống cả. Một hôm sau khi đi chợ về, mẹ thuật lại với tôi một câu chuyện khiến tôi rất xúc động, rưng rưng nước mắt :Con biết không, ở chợ có đủ các gánh hàng ăn, nào là bánh cuốn, bún riêu, cháo lòng, bánh xèo…, thế nhưng chưa bao giờ mẹ ngồi ăn một mình ở chợ. Hôm nay bụng đói, đi ngang hàng bánh canh, gạch cua nổi váng trong nồi bánh canh của bà bán hàng, khiến mẹ thèm. Suýt tí nữa là mẹ ngồi xuống ăn, thế nhưng mẹ cưỡng lại được, mẹ nhìn đi nơi khác. Về đến nhà trông thấy mặt con mẹ rất mừng, mẹ hiểu rằng mẹ không phải là người tham ăn’.

 

Không cần mẹ nói tôi cũng biết mẹ là người không tham ăn. Trên mâm cơm, trong tộ canh chua nếu có cặp trứng cá lóc, thì đấy là phần của cha, nếu cha không ăn thì mẹ lấy đũa xắn ra chia cho các con. Miếng ngon trên mâm, không bao giờ mẹ gắp. Nhường nhịn miếng ăn trên mâm phải chăng là cách thể hiện kín đáo tình thương yêu của mẹ đối với chồng con ? Ước mơ trong lòng của một người mẹ thường rất âm thầm và yên lặng, khiến chúng ta không mấy khi nhận thấy, thế nhưng thật ra thì đấy là cả một sự hy sinh.

 

Sau mười-lăm-năm dạy học, tôi rời xa quê hương. Thế nhưng thật ra thì quê hương vẫn còn đó, vẫn còn nguyên, ít nhất là trong ký ức và tâm khảm tôi. Những gì mà tôi bỏ lại phía sau là một bầu không gian giả dối, một khung trời tư tưởng chật hẹp, tham lam và hung bạo. Sau vài năm học lại nơi xứ người, tôi tìm được công ăn việc làm trong một công ty dầu khí mang tầm vóc quốc tế. Ngoài công việc khảo cứu tôi còn được giao phó theo dõi các giếng khoan tầm khảo khắp nơi trên thế giới, từ trên vòng đai bắc cực đến các vùng sa mạc hoang vu, từ vùng vịnh Ba-tư giàu có đến các vùng rừng rậm Phi châu và cả các nước Á châu đa dạng và phức tạp, trong số đó kể cả quê hương tôi. Công việc rày đây mai đó tạo dịp cho tôi tiếp xúc với thiên nhiên và các dân tộc khác nhau, mở ra cho tôi một tầm nhìn bao quát hơn về thế giới này. Tầm nhìn đó không khỏi khiến tôi đôi lúc hồi tưởng lại quê hương tôi, dân tộc tôi và cả những kỷ niệm của riêng tôi vào những ngày thơ ấu.

 

Khung cảnh của cái tỉnh lỵ nhỏ bé nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, những khoảng thời gian êm ấm bên cạnh cha mẹ tôi và cả những giấc mơ ám ảnh tôi trong quá khứ vẫn còn in đậm trong ký ức. Tôi xin thuật lại câu chuyện về một ước mơ vụt hiện lên với tôi trong một bối cảnh thật bất ngờ, câu chuyện xảy ra cách nay đã gần bốn-mươi năm. Tôi được công ty giao phó theo dõi một giếng khoan trong eo biển Macassar thuộc lãnh thổ của xứ Indonesia. Tôi lấy máy bay từ Paris đến Singapore, sáng hôm sau lại lấy máy bay đi Jakarta, tại đây tôi phải đến trụ sở của công ty để tham khảo thêm tài liệu và thảo luận với các chuyên gia khác. Sáng hôm sau lấy máy bay đến tỉnh lỵ Palikpapan trên đảo Borneo, và sau đó lại chuyển sang trực thăng đưa tôi lên giàn khoan trên biển. Trong những lúc bận rộn vì công việc và căng thẳng vì trách nhiệm, tôi thường đánh mất hết các điểm tựa xúc cảm riêng tư nơi con người mình. Tuy nhiên trong những lúc thư giãn hơn, dù chỉ là ngắn ngủi, tôi vẫn cố gắng tìm lại những gì sâu kín trong lòng, hầu mang lại cho tôi một chút thăng bằng và yên lặng hơn trong tâm hồn mình.

 

Trong chuyến công tác đó, khi đến Singapore thì chi nhánh của công ty đã đặt phòng trước cho tôi tại một trong các khách sạn sang trọng nhất. Tối hôm đó tôi ngồi ăn trong nhà hàng ăn nơi tầng cao nhất của khách sạn. Khách đông, các cô hầu bàn ăn mặc đồng phục cũng đông. Trong số các người khách đang ăn thì duy nhất chỉ có tôi là ngồi lẻ loi, trước mặt là thức ăn và một lọ hoa. Một cô hầu bàn tiến đến bàn của tôi gợi chuyện, giải thích về các món ăn của Singapore, mô tả các sự sinh hoạt nơi thành phố này. Một cô hầu bàn thứ hai dường như trông thấy tình trạng khá tế nhị đó của cô thứ nhất, bèn tiến đến bên cạnh tôi, gợi chuyện và gắp thức ăn cho tôi. Hai cô hầu bàn giúp cho một khách ăn bớt lẻ loi là một hình thức lịch sự, một trách nhiệm đối với nghề nghiệp của mình, thế nhưng lại khiến tôi cảm thấy khá lúng túng. Vào đúng lúc đó vụt hiện lên trong tâm trí tôi hình ảnh của mẹ tôi đang đi ngang gánh hàng bánh canh trong khu chợ chồm hỗm. Bỗng nhiên tôi ước mong được đưa mẹ vào một khách sạn thật sang trọng tại Singapore, Bangkok hay Jakarta, để mẹ nghỉ ngơi một đêm trong cuộc đời mẹ, và cũng để mẹ thưởng thức một vài món ăn thật ngon. Tôi hình dung mẹ tôi với búi tóc sau gáy, mặc áo the đen, mang dép nhung thêu cườm, cùng với tôi bước vào cửa một khách sạn to lớn. Hai nhân viên gác cửa khẽ nghiêng người chào, kéo hai cánh cửa thật lớn đón rước mẹ con tôi.

 

Hình ảnh tưởng tượng bất ngờ đó khiến tôi rơm rớm nước mắt. Tôi vội cúi xuống cầm chiếc khăn ăn giả vờ lau miệng, thế nhưng thật ra là để chậm những giọt nước mắt lăn dài trên má. Một cô hầu bàn thấy tôi yên lặng cúi xuống, vội chúc tôi ăn ngon và rút lui, cô thứ hai cũng rút lui. Tôi ngồi thẫn thờ và đơn độc… Mẹ tôi mỗi năm cũng chỉ mặc áo dài một lần để lên chùa lễ Phật vào đêm giao thừa, và thật ra thì mẹ tôi cũng chỉ có một chiếc áo dài duy nhất bằng the đen, trước khi đi thì kéo đôi dép nhung đen thêu cườm dưới gầm chiếc tủ đứng, mỗi tay cầm một chiếc, đập đập vào nhau vài cái trước khi mang vào chân. Mẹ tôi là một phụ nữ quê mùa, bước chân vào một khách sạn sang trọng có thể không mang một ý nghĩa nào cả. Phải chăng cử chỉ không nhìn vào nồi bánh canh trong khu chợ chồm hỗm mới thật sự mang nhiều ý nghĩa hơn chăng, ít nhất là đối với mẹ ?

 

Mẹ tôi và tôi cùng sống trong những giấc mơ. Sự khác biệt trước nhất là các ước mơ nhỏ bé của mẹ từ những ngày xa xưa nay đã hóa thành to lớn và thiết tha trong tôi. Sự khác biệt sau đó là mẹ đã biến các ước mơ nhỏ bé của mẹ trở thành sự thực bên trong lòng mẹ, trái lại các ước mơ to lớn và thiết tha của tôi sẽ mãi mãi chỉ là ước mơ.  

 

Bures-Sur-Yvette, 04.02.25

 Hoang Phong

 

Chiều về chênh chếch đồi xa,

Nghiêng nghiêng giọt nắng hiên nhà nắng phai.

Chiều sa tím dãy đồi dài,

Tím màu mắt mẹ những ngày xa xưa.

 

Trước sân cành lá đong đưa,

Như ru nhịp võng mẹ đưa ngày nào.

Chiều buông nhớ mẹ nao nao,

Buông vào quá khứ chìm vào tuổi thơ.

 

Thời gian ngày bé hững hờ,

Trôi nhanh cuốn cả giấc mơ thật thà.

Mơ rằng khi lớn làm ra,

Xây nhà mẹ ở mua quà mẹ ăn.

 

Paris, 10.08.92


Giấc Mơ Thật Thà

Hồng Vân diển ngâm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2020(Xem: 5900)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 6119)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 6546)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 5068)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5821)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 6076)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 7589)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5661)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 7044)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 7883)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]