Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngũ Vị Quân Thần

04/02/202513:25(Xem: 250)
Ngũ Vị Quân Thần

buddha-588
Ngũ Vị Quân Thần


Nguyên Giác


Có một bài thơ khó hiểu trong Thiền Tông. Bài thơ có tên là Ngũ Vị, có khi gọi là Động Sơn Ngũ Vị, và có khi gọi là Ngũ Vị Quân Thần. Bài thơ khó hiểu phần vì dùng nhiều chữ xưa cổ, nhiều hình ảnh thi vị, và vì chỉ cho một số chặng đường tu học trong Thiền Tông. Bài này sẽ tham khảo nhiều giải thích để làm sáng tỏ bài thơ này.

Bài thơ Ngũ Vị soạn bởi Thiền sư Động Sơn (807-869), người khai sáng ra Tông Tào Động. Bài thơ nói về tương tác của hai khái niệm: Chính và Thiên. Các khái niệm này dễ hiểu hơn, nếu chúng ta sử dụng một số chữ khác. Chính tức là Không, và Thiên tức là Sắc. Chính tức là Tánh, và Thiên tức là Tướng. Chính tức là Lý, và Thiên tức là Sự.

Thiền sư Tào Sơn nói, "Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng."

Bài thơ gồm 5 đoạn. Nơi đây sẽ viết lại cho đơn giản, dựa trên bản Việt dịch của Thầy Thích Thanh Từ và các bản Anh dịch khác.

Đoạn 1:
Chánh trung thiên. (Trong Sắc có Không, trong Tướng có Tánh, trong vô lượng cái hiển lộ có một định luật duyên khởi.)
Trong đêm, vào lúc canh ba, người tu thấy được trăng rọi nơi hiên.
Thấy rồi, nhưng chưa rõ tận tường, vẫn còn ẩn kín những phiền não.

Giải thích: Nói theo Tâm Kinh, đó là nhận ra Sắc tức thị Không. Người tu lúc này thấy được Tánh Không trong tất cả những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường đều là Không. Người tu lúc này thấy được Tánh Không trong tất cả Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức. Lúc đó còn là đêm, chưa tỏ tường, và phiền não vẫn còn.

Đoạn 2:
Thiên trung chánh. (Người tu thấy Không trong  Sắc tỏ tường hơn, nhận ra đây là tấm gương tâm xưa cổ của mình.)
Mắt sáng, lão bà tìm ra cổ kính, thấy trực tiếp, rõ ràng trước mắt, gần gũi và không có gì ngoài cái Không.
Người tu không còn quên đầu của mình để đi tìm bóng phản chiếu nữa.

Giải thích: Người tu thấy tất cả những cái được thấy, nghe, hay, biết đều là không. Thấy tất cả những hình ảnh mình thấy và những âm thanh đều là từ tâm hiện lên, và chỉ có một vị duy nhất là hiển lộ theo luật duyên khởi, và cốt tủy là không. Và không hề có gì gọi là tự ngã.
.
Đoạn 3:
Chánh trung lai. (Thấy toàn thân và tâm mình biến mất, thường trực là không, tất cả đều không tự ngã, và Không chính là con đường giải thoát.)
Trong Tánh Không là con đường để giải thoát.
Cái Không chính là tên gọi cấm kỵ của nhà vua, mà không có ngôn ngữ nào nói ra cho trọn nghĩa được.
.
Giải thích: Khi thấy thân và tâm đã biến mất, thường trực nhận ra Tánh Không nơi đi, đứng, nằm, ngồi, thì không lời nào kể lại được kinh nghiệm này. Mở miệng như dường là cấm kỵ vì lời nào cũng bất toàn.
.
Đoạn 4:
Thiên trung chí. (Người tu thấy mình như dường đi giữa những trận mưa hoa của Sắc và Không, của Tướng và Tánh, của Lý và Sự. Nơi đây không còn phân biệt nữa, khi hai lưỡi kiếm của Có và Không múa bay khắp trời.)
Thấy hai lười kiếm đua tranh, người tu đi không ngăn ngại, tự thấy mình như kiếm sĩ bậc thầy đang đi như hoa sen nở trong lò lửa.
Người tu giữ nguyên vẹn nơi tâm ý nguyện cao ngất trời.
.
Giải thích: Người tu không còn bận tâm, hay ngăn ngại nào. Lúc này là thõng tay vào chợ, mang tâm Bồ tát tùy duyên mà giúp đời.
.
Đoạn 5:
Kiêm trung đáo. (Người tu tới ngay trung tâm, không còn thấy có gì để bước tới hay bước lui, thân tâm không cách biệt với tro tàn trong cõi nhà lửa này.)
Người tu không lạc vào Không, không lạc vào Có nữa.
Có ai muốn cùng đi với người tu này không?
Trong khi mọi người khác tìm cách vượt qua bờ kia, người tu này tự thấy mình không cách biệt gì với vạn pháp, chỉ lặng lẽ ngồi giữa tro tàn.
 
Giải thích: Người tu này không thấy có bờ này để phải lìa, không thấy có bờ kia để phải tới. Người này lặng lẽ thấy mình trong tro tàn của cõi nhà lửa này. Nói theo Kinh Lăng Già, người tu này đã giết cha, giết mẹ, giết vợ, giết con, giết cháu; nghĩa là giết sạch trong tâm cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai.
 
.... o ....
 
The Five Ranks

Written and translated by Nguyên Giác


There is a difficult poem in Zen Buddhism. We call the poem The Five Ranks. People sometimes refer to it as Dongshan's Five Ranks. Some people call it The Five Ranks of the King and the Officials. The poem is challenging to comprehend, partly due to its use of archaic language and numerous poetic images, as well as its focus on only certain stages of the Zen practice journey. This article will provide various explanations in an effort to clarify the poem's meaning.
 
Zen Master Dongshan (807-869), the founder of the Soto Zen sect, composed the poem Five Ranks. This poem explores the interaction between two concepts: Chính and Thiên. Alternative terms can clarify these concepts. Chính refers to Emptiness, while Thiên signifies Form. Additionally, Chính can be understood as Essence, and Thiên as Appearance. Furthermore, Chính represents Principle, whereas Thiên denotes Phenomenon.
 
Zen Master Cao Shan said, "Chính is the realm of emptiness, which has always existed without things. Thiên is the realm of form, which encompasses a myriad of forms."

The poem consists of five stanzas. It will be rewritten for clarity, drawing on the Vietnamese translation by Zen Master Thich Thanh Từ as well as other English translations.
 .
Stanza 1:
The Relative within the Absolute. (In form, there is emptiness; in appearance, there is essence. In the infinite manifestations, there exists a law of dependent origination.)
During the night, at the third watch, the practitioner observed the moon shining on the veranda.
Although the practitioner could see the moon, its clarity was obscured, and hidden afflictions remained.
 .
Explanation: According to the Heart Sutra, this is when the practitioner realizes that form is emptiness. At this moment, the practitioner recognizes emptiness in everything they see, hear, smell, taste, touch, and think. The practitioner recognizes emptiness in all aspects of form, feeling, perception, volition, and consciousness. At this time, it is still night, not yet clear, and afflictions still persist.
 .
Stanza 2:
The Absolute within the Relative. (The practitioner perceives Emptiness in Form with greater clarity, recognizing it as the ancient mirror of his mind.)
The old lady, with bright eyes, perceives the ancient mirror clearly and intimately before her. Yet, all she sees is emptiness.
The practitioner had seen his head, so he did not look for the reflection anymore.
.
Explanation: The practitioner recognizes that everything perceived—whether seen, heard, or known—is ultimately empty. He understands that all images and sounds are mere manifestations of the mind, existing within a singular realm that arises according to the law of dependent origination, whose essence is also empty. Furthermore, he realizes that the concept of a self is an illusion.
.
Stanza 3:
Coming from within the Absolute. (The practitioner observes his entire body and mind dissolve, realizing that everything is empty and devoid of self. Emptiness serves as the path to liberation.)
Recognizing emptiness is the pathway to liberation.
Emptiness is the unutterable name of the king, a concept that no language can fully articulate.
.
Explanation: When one perceives that both the body and mind have vanished and continuously realizes emptiness while walking, standing, lying down, and sitting, no words can adequately convey this experience. Speaking feels inappropriate, as any attempt at expression falls short of capturing the essence of this state.
.
Stanza 4:
Arrival at Mutual Integration. (The practitioner finds himself walking among the showers of flowers representing Form and Emptiness, Form and Essence, and Principle and Phenomenon. Here, there is no longer any distinction, as the two swords of Being and Non-Being dance across the sky.)
Seeing the two swords clash, the practitioner moves effortlessly, envisioning himself as a master swordsman, gracefully walking like a lotus blooming in a fiery furnace. He maintains his mind's lofty aspirations intact.
.
Explanation: The practitioner is free from worries and hindrances. In this moment, he lowers his hands and enters the market, embodying the Bodhisattva mindset to assist others as circumstances permit.
.
Stanza 5:
Unity Attained. (The practitioner reaches the center, perceiving no distinction between moving forward or backward; body and mind are inseparable from the ashes in this burning house.)
The practitioner does not deviate into being or non-being.
Is there anyone who would like to accompany this practitioner?
While everyone else is striving to reach the other shore, this practitioner perceives himself as no different from all things, simply sitting quietly among the ashes.
.
Explanation: This practitioner does not perceive a shore to depart from, nor does he see a shore to arrive at. Instead, he quietly observes himself amidst the ashes of this burning house. According to the Lankavatara Sutra, this practitioner has metaphorically killed his father, mother, wife, children, and grandchildren; in other words, he has entirely extinguished in his mind all three temporal dimensions: past, present, and future.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
(1) HT Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa Tập Hai:
https://thuvienhoasen.org/a9830/doi-thu-nam-sau-luc-to
(2) Five Ranks: https://en.wikipedia.org/wiki/Five_Ranks
(3) Dale Verkuilen, Dogen and the Five Ranks:
https://terebess.hu/zen/dogen/dogenandthefiveranks.pdf
(4) White Lotus Judith Ragir, Dongshan’s Five Ranks:
https://www.judithragir.org/2012/06/dongshans-five-ranks/
.... o ....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2015(Xem: 6985)
Phật giáo Khánh Hòa từng tạo những sự kiện lớn trong bao năm qua, việc tổ chức kỷ niệm 25 năm thành lập trường Trung cấp Phật học điểm thêm dấu son vào giáo sử tỉnh nhà, như từng lưu dấu suốt thời chấn hưng Phật giáo mà Khánh Hòa là một trong những địa phương từng được các bậc chân đức như cố Hòa Thượng T.Đổng Minh, cố HT T.Trí Nghiêm, cố HT T.Chí Tín, cố HT T.Trí Thủ, cố HT T.Thiện Minh, cố HT T.Thiện Siêu, cố HT T.Huyền Quang... góp công hình thành Phật sự.
28/09/2015(Xem: 10939)
Hôm chủ nhật cuối tuần ngày 20.09.2015, lớp ngành Thanh Gia Đình Phật Tử Tâm Minh tại Chùa Viên Giác, Hannover do mình hướng dẫn đã thảo luận về đề tài "Duyên Khởi và Dòng người tỵ nạn tại Âu Châu". Vì sao mình chọn đề tài nóng bỏng này cho các em thảo luận? Bởi các em là những thanh thiếu niên đã có bằng tú tài hoặc đang học đại học, cần có một cái nhìn mọi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cũng như ngay chính bản thân mình bằng lăng kính giáo lý Phật Đà, để phát lòng từ bi rộng lớn, chứ không phải từ bi "có điều kiện"! Điều này sẽ giúp cho các em tăng thêm sự hiểu biết về giáo lý thực dụng của Đức Thế Tôn khi trao đổi với bạn bè khác trong trường. Là một Phật tử, ta nên tập quán chiếu mọi pháp thế gian qua lăng kính Phật Giáo, thì sẽ nhận ra được "Phật pháp không ngoài thế gian giác!"
27/09/2015(Xem: 6327)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10835)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 8388)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 8767)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9343)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9446)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7975)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10777)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]