Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Bố Úy

03/02/202512:27(Xem: 263)
Vô Bố Úy
buddha-407VÔ BỐ ÚY
(Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh thiền sư)

 

Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.

Tại sao chúng ta sợ hãi? có vô vàn nỗi sợ: Sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ mất mát, sợ hao tổn, sợ thiệt thòi, sợ chia lìa, sợ bêu xấu, sợ nhục, sợ bị phỉ báng, sợ nghèo… và trên hết là sợ chết. Tất cả chung quy cũng chỉ vì cái “tôi” vô hình vô tướng. Chúng ta yêu cái “tôi”, cái “ngã”, chấp vào cái “ngã” cho rằng thân này là thật. Điều này đã huân tập từ vô lượng kiếp rồi đâu thể nào dễ buông bỏ. Đọc kinh sách, hiểu văn tự, thông chữ nghĩa là vậy nhưng đó chỉ là lý thuyết, khi đụng việc thì mới biết thật giả thế nào.

Cái thân này không thật, ngũ uẩn này do duyên hợp chứ không phải thật, nếu nó thật thì: “Người đời có thể xin cho các uẩn như thế này hoặc như thế kia. Vì nó không thật nên người đời không thể xin cho nó không như thế này hoặc không như thế kia” (Kinh Suy Niệm về Nghiệp). Buông được cái “tôi”, không còn chấp ngã là một việc vô cùng khó nhưng một mai làm được thì chẳng có gì có thể khiến chúng ta sợ hãi nữa.

Tại sao các ngài vô úy? Bộ các ngài không có thần kinh, không có trái tim, không có cảm giác sao? Bộ các ngài là thân kim cang sao? Không phải vậy! Các ngài cũng thân thể vật chất như chúng ta. Các ngài cũng vay mượn cơm nước, không khí, cũng đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần như chúng ta. Thế tại sao các ngài vô úy? Vì các ngài đã vượt qua mặt lý thuyết, đã biến chữ nghĩa văn tự thành sự thật. Các ngài ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã, không còn chấp ngã. Có thể các ngài chưa chứng đắc hoặc giả đã chứng đắc nhưng không tùy tiện hiển lộ để mê hoặc lòng người. Các ngài ngồi xem thịnh suy của thời cuộc thế sự mà lòng không lay động, không sợ hãi. Đừng nói là thế sự thịnh suy, ngay cả Phật pháp cũng thịnh suy là lẽ tự nhiên, là quy luật của vô thường. Đọc kinh sách ta thấy ngài Mục Kiền Liên là bậc thánh tăng chứng đắc có thần thông, ngài biết trước sẽ bị bọn ngoại đạo giết chết và băm vằm thân xác nhưng ngài vẫn thản nhiên như chẳng có việc gì. Tổ sư Từ khi bị vua nước Kế Tân hỏi mượn cái đầu, ngài đưa cổ cho vua cắt mà cả thân tâm đều không một chút sợ hãi, hối hận hay giận dữ, thản nhiên cứ như cho mượn viên sỏi hạt bụi. Có thể chúng ta lý luận là ngài trả nghiệp hoặc là  bậc thánh nhân du hí nhân gian. Không bàn ở khía cạnh này, ở đây chỉ nói về tinh thần vô úy mà thôi! Ngài đã ngộ vô thường, buông bỏ cái ngã , đã hoàn toàn “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn” (Tâm Kinh). Các ngài đã thật sự “Vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố” (Tâm Kinh). Tổ sư Từ cho vua nước Kế Tân mượn đầu nào có khác gì tiền thân của đức Phật xả bỏ thân mạng để cứu bầy cọp đói!

Lão Triệu cũng thế, ngài vốn là ông tăng trẻ xuất chúng, viết Triệu Luận làm chấn động Phật môn Trung Nguyên, ảnh hưởng sâu rộng đến giới tu học duy thức Trung Nguyên và cả những nước lân cận như: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam… Năm 31 tuổi  bị nạn nhà Hậu Tần, trước khi thọ hình chém đầu, ngài ung dung thanh thản đọc kệ:

Tứ đại vốn không chủ

Ngũ ấm gốc cũng không
Đưa đầu nhận kiếm bén
Như chém làn gió xuân

Thật phi thường, xem việc chém đầu như làn gió xuân, chúng ta không bàn về nguyên nhân hay những vấn đề liên can đến việc thọ nạn, ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần vô úy, cảm nhận và khâm phục sự vô úy của các ngài.

Ngài Huyền Trang một mình một bóng vượt vạn lý sang Tây Trúc thỉnh kinh. Ngài đối mặt với sự cô độc, dấn thân giữa rừng thiêng nước độc, sa mạc cát cháy, tuyết lãnh buốt sương, cường sơn thảo khấu, phiến quân bạo chúa, thú dữ độc trùng… mà không hề sợ hãi, không thối thất tâm bồ đề, không nản chí ngã lòng. Thật không biết dùng từ ngữ gì để mà miêu tả cho hết nỗi gian nan nguy hiểm trên đường đi. Ngài đã đi và về mất 19 năm ròng.

HUYỀN DIỆU CƠ DUYÊN THIỀN VIỆN DU TĂNG XUẤT VẠN LÝ TÂY THIÊN TẦM SƯ THÍNH PHÁP SƯU KHẢO VĂN BẢN CHÁNH

TRANG NGHIÊM THÙ THẮNG PHẬT MÔN ĐẠI SƯ LÂM TỨ PHƯƠNG ĐÔNG ĐỘ GIÁO CHÚNG DỊCH KINH TRUYỀN BÁ THÁNH ĐIỂN NGÔN

 

Thế sử và Phật sử hiện đại cũng cho thấy một vị hòa thượng vô bố úy như thế nào. Vì pháp nạn mà hòa thượng Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, thượng cúng dường mười phương chư Phật, hạ hy vọng soi rọi tâm trí người mê, thức tỉnh kẻ thủ ác. Ngài ngồi giữa biển lửa mà nét mặt bình thản, tay thủ ấn, toàn thân bất động, không một cử chỉ hay một âm thanh nào tỏ ra đau đớn hay sợ hãi. Sự vô úy của ngài làm lay động toàn thể lương tâm nhân loại, cả thế giới sững sờ khâm phục.

Các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sỹ cũng là những tấm gương vô úy trong thời đại hôm nay. Các ngài vì đạo pháp, vì dân tộc, vì tiền đồ non nước mà chịu tù đày, cấm bế, khủng bố, mạ lỵ… mà không chút sờn lòng, không hề lung lay ý chí, không thối thất tâm bồ đề. Thậm chí ngài Tuệ Sỹ mang bản án tử hình ấy vậy mà vẫn tự tại trong chốn lao tù. Ngài ngồi gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn thế sự, tù đày và hình án chẳng làm bận lòng, ngày ngày vẫn:

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường tối thắng tôn

Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Thân mình chịu hình án cũng chẳng đáng là bao so với sự thống khổ của thế gian ngập chìm trong huyết hận. Án tử cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái khổ trong vô minh trầm mịch của chúng sanh. Các ngài đã không còn xem cái thân là thật, đã thật sự buông được cái ngã, phá được sự chấp ngã nên mới vô úy như thế!

Vô úy trong Phật môn là thế, ngoài đời cũng có nhiều tấm gương vô úy, tuy họ không biết hay chưa biết đến Phật pháp nhưng họ cũng thể hiện tinh thần vô úy, truyền sự vô úy đến với mọi người. Chúng ta thấy ban nhạc trên con tàu Titanic vô cùng can đảm và vô úy. Họ như những tượng đài bất diệt, cứ chơi nhạc như không có gì xảy ra, mặc cho con tàu đang chìm nhanh vào làn nước biển. Họ muốn duy trì và giữ vững tinh thần cho những nạn nhân còn lại trên boong tàu. Họ chơi nhạc như những buổi biểu diễn bình thường để vực dây tinh thần những con người đang hoảng loạn cùng cực trước cái chết. Họ đang thực hành vô úy, bố thí vô úy.

Ba trăm lính cứu hỏa của thành phố Nữu Ước lao vào tòa nhà World Trade Center. Họ hoàn toàn biết rằng tòa nhà đang cháy và đang sụp đổ. Họ biết cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ vẫn vào để cứu người. Những con người vô úy, đang thí vô úy, thực hành vô úy. Những người lính cứu hỏa ấy cũng bằng xương thịt như ta, cũng biết đau đớn và sợ hãi như mọi người, cũng có cha mẹ, vợ con, gia đình, sự nghiệp như mọi người… Ấy vậy mà họ lao vào cái chết không chút sợ hãi, trong cái khoảnh khắc nghiệt ngã này họ đã buông được cái ngã, sống chết vì tha nhân. Họ chưa hề biết đến Phật pháp nhưng đã thực hành vô úy, bố thí vô úy như thể những bồ tát hóa thân.

 

Nước Mỹ vốn được mệnh danh là đất mơ (dream land), đất tự do (freedom land) xưa nay bao dung cưu mang hàng chục triệu nạn nhân của áp bức bất công, đàn áp chính trị, kỳ thị tôn giáo hoặc giới tính, nạn nhân đói nghèo, chiến tranh, thiên tai… Ngày hôm nay đang biến động mạnh, một chính phủ cực hữu da trắng được lãnh đạo bởi những kẻ cục súc, độc ác, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen. Một chính phủ đứng đầu bởi một con người gian trá, thô lỗ, hung hãn cả một đời chưa từng nói được một lời thật, một lời tử tế, chưa làm được một việc gì thiện lành. Với y chỉ có tiền, tiền và tiền, tiền là tất cả. Y và chính phủ của y đang gieo rắc sự khủng bố đến với những con người thấp cổ bé họng. Y đang chà đạp lên công lý và luật pháp. Y hiện thân chẳng khác những tay độc tài tàn bạo của những xứ sở lạc hậu chậm tiến. Hầu hết những người gìau có, quyền thế đều khom lưng quỳ gối thần phục y. Ấy vậy àm có một vị nữ mục sư đã dám nói lời thật trong ngày đầu y đi lễ nhà thờ. Bà Wariann Edgar Budde đã phát biểu: “Hãy yêu thương hàng xóm của bạn, hãy bảo vệ những người cần được bảo vệ, ngừng nói lời cay nghiệt, ngừng so sánh và ngừng dựa vào dáng vẻ bề ngoài vì nó thoáng qua nó không giúp ích gì cho bạn khi xác thân này tắt thở. Tham lam, giận dữ và ảo tưởng không phải là con đường”.

Kể cũng can đảm lắm thay, dẫu chưa phải là vô úy trước sanh tử nhưng ít ra cũng vô úy trước bạo lực cường quyền, dám lên tiếng trước cái xấu, cái ác. Cả xã hội đang dao động, nhất là những người di dân không giấy tờ, nhưng tầng lớp dưới đáy xã hội bất an trước những sắc lệnh hành pháp cắt giảm trợ cấp. Nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường đang lo lắng vì sự thiển cận hẹp hòi của kẻ ác đang cản trở và phá hoại những thành quả bấy lâu nay.

Có một điều khá quái lạ là người Việt hải ngoại phần lớn là những người di dân, tỵ nạn nhưng lại đi phò kẻ kỳ thị người tỵ nạn, thậm chí họ tôn thờ y như thiên sứ mới ghê. Rất nhiều người hùa theo y bằng cả lời nói và hành động, tham gia bạo loạn, ủng hộ sự kỳ thị, đe dọa khủng bố những người dám nói sự thật, dám lên tiếng vì công lý, nhân quyền. Những người Việt tỵ nạn đi phò kẻ khủng bố gieo rắc sợ hãi và kỳ thị lên người gốc châu Á, nói sao cho hết sự ngu si tàn nhẫn như thế này! Những người Việt ủng hộ sự khủng bố đối với người tỵ nạn mà họ quên rằng trước đây họ cũng là những thuyền nhân, những người tù, những nạn nhân của khủng bố chính trị, đói nghèo từ Việt Nam được chính phủ Jimmy Carter bao dung cho nhập cư. Vô minh và vô cảm đến thế là cùng, thật khó mà làm cho họ hồi tâm chuyển ý nếu không muốn nói là không thể. Bởi vậy mà sách vở có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay”. Để lý giải cho cái sự cuồng của người Việt chỉ có thể nói là “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”. Ở đây chỉ là cái sự tầm nhau ở sự ác, sự thô lỗ, sự vô cảm… chứ còn thân phận Việt da vàng mũi tẹt tỵ nạn thì đâu đã trở thành thượng đẳng da trắng được!

Trong cái hoàn cảnh khủng bố như thế, bà Mariann Edgar Budde dám nói thật, nói thẳng như thế cũng có thể xem như thực hành vô úy, úy lạo đến những con người thấp cổ bé họng đang trong cơn sợ sệt. Sự tôn phò của đám đông cuồng loạn khiến không ít người trong chúng ta chán nản, mất niềm tin, lo lắng… Những lúc này cần biết bao những con người vô úy, cần lắm những hành động vô úy, lời nói vô úy!

Ngày xuân đọc xem lại những tấm gương vô úy của các bậc thượng nhân, các anh hùng trượng phu mà thấy lòng ấm áp và dường như có chút gì đó cũng khiến cho lòng mình bớt dao động. Học hạnh vô úy, thực hành vô úy bố thí vô úy không phải chỉ những bậc trượng phu mới làm được. Mọi người chúng ta cũng có thể học chút chút, từ lý thuyết đến thực hành tuy có một khoảng cách rất xa nhưng mỗi ngày một chút, bắt đầu từ việc nhỏ nhặt nhất, căn bản nhất như không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ hung ác. Ngay trong đời thường cũng có thể đứng với những người thấp cổ bé họng, giúp đỡ những người cùng khổ hay phóng sanh một con vật ấy cũng chính là thực hành vô úy, bố thí vô úy.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 2025

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 20352)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 25215)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
10/12/2013(Xem: 10087)
Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành.
09/12/2013(Xem: 7122)
Gia đình nghèo kia có ba người: Bố – Mẹ – và Con trai. Họ sống âm thầm và bình lặng trong một thôn làng hẻo lánh, người Bố đi làm thuê để kiếm cơm gạo nuôi gia đình, người mẹ lo việc bếp núc, trồng mấy luống rau, và chăm sóc con. - Một buổi trưa hè nắng nóng, người mẹ trên đường từ chợ về nhà chợt nhặt được một trái cam ai đó đánh rơi bên đường, cơn khát và mệt nhọc dường như tiêu tan khi bà nghĩ đến miếng cam ngọt lịm và mọng nước. Nhưng nghĩ đến đứa con ngoan ngoãn chẳng mấy khi được ăn hoa trái thơm ngon, bà liền lau sạch trái cam và cất vào túi.
09/12/2013(Xem: 8892)
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
09/12/2013(Xem: 9023)
Có thầy trò một nhà kia làm nghề hát xiệc. Người thầy là một người đàn ông góa vợ và người học trò là một cô gái nhỏ tên là Kathullika. Hai thầy trò đi đây đó trình diễn để kiếm ăn. Màn trình diễn của họ là người thầy đặt một thanh tre cao trên đỉnh đầu mình, trong khi bé gái leo dần lên đầu cây rồi dừng lại trên đó, để người thầy tiếp tục đi trên đất. Cả hai thầy trò đều phải vận dụng sự tập trung tâm ý đến một mức độ khá cao, để giữ thăng bằng và để ngăn chặn tai nạn có thể xảy ra.
09/12/2013(Xem: 8269)
Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.
09/12/2013(Xem: 8508)
Nguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng… Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế? - Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.
08/12/2013(Xem: 11515)
Bodh Gaya (Bihar), Ngày 3, tháng 12, năm 2013 – Lễ trùng tụng Tam tạng thánh điển quốc tế đã cử hành tại Bồ Đề Đạo Tràng thuộc tỉnh Bihar, Ấn độ. Hàng ngàn chư Tăng và Phật tử trên toàn thế giới đang tham dự buổi lễ này. Buổi lễ 10 ngày được tham dự bởi chư Tăng và Phật tử từ các quốc gia như Bangladesh, Căm bốt, Ấn độ, Nepal, Miến điện, Thái lan, Tích lan và Việt nam sẽ chấm dứt vào ngày 12 tháng 12 năm 2013.
08/12/2013(Xem: 33872)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]