Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Đâu Có Tham, Sân, Sợ Hãi, Niệm?

25/01/202512:10(Xem: 504)
Từ Đâu Có Tham, Sân, Sợ Hãi, Niệm?
Buddha-307
Từ đâu có tham, sân, sợ hãi, niệm?
Nguyên Giác

     Trong Thiền Tông thường nói rằng khi ngọn đèn sáng thắp lên, thì bóng tối của vô lượng kiếp sẽ biến mất. Hình ảnh đó còn được giải thích là, khi người tu thấy được ánh sáng của bản tâm, nơi không có gì được bám víu, thì vô lượng nghiệp xấu đều biến mất. Kinh điển giải thích điểm này thế nào? 

   Như thế, Thiền Tông muốn nói rằng Phật là ở trong tâm. Không hề có Phật nào bên ngoài. Khi nói có Phật ngoài tâm, chỉ có nghĩa đó là Phật của tượng xi măng, của tượng gỗ. Và những gì ở ngoài tâm thì không ích lợi gì cho công việc tu hành của người tu.

   Thiền sử Việt Nam kể rằng khi Vua Trần Thái Tông (1218-1277) rời bỏ kinh thành, lên núi xin xuất gia, thì được Quốc sư Trúc Lâm dạy rằng: "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết, thì đó là Chân Phật. Nay ngài nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài."

   Được dạy như thế xong, Vua Trần Thái Tông trở về kinh thành, tiếp tục miễn cưỡng làm vua. Trong hơn mười năm, những khi được rảnh rỗi, Vua tập họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và nghiên cứu các kinh Đại thừa. Vua thường đọc kinh Kim Cang, một lần đọc đến câu “khi tâm không bám chấp vào đâu, thì tâm Niết bàn sẽ hiện ra," vua bỗng nhiên tự hiểu được ý nghĩa thâm sâu của Thiền Tông.

   Sau đó, Vua Trần Thái Tông đem những hiểu biết đó để viết thành một bản văn, đặt tên là Thiền Tông Chỉ Nam. Khi Quốc sư Trúc Lâm từ núi Yên Tử về thăm kinh đô, Vua Trần Thái Tông mời ở chùa Thắng Nghiêm, phụ trách việc ấn bản các kinh. Khi Vua đem tập sách Thiền Tông Chỉ Nam trình Quốc sư, Quốc sư đọc xong liền ca ngợi rằng: "Tâm chư Phật ở trọn nơi đây, trong khi khắc in các kinh, hãy khắc in luôn sách này để dạy kẻ hậu học."

Đó là Phật ở trong tâm. Khi tâm không bám chấp vào đâu, thì tâm Niết bàn hiện ra. Tức là, khi ngọn đèn thắp sáng, thì bóng tối vô lượng kiếp biến mất.

Một bài kệ của Phật giáo Việt Nam có các câu sau:

Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.

   Trong hai tạng Kinh Pali và A Hàm cũng có bốn Kinh -- Snp2.5 Sutta, SN 10.3 Sutta, SA 1314, và SA 1324 -- ghi lời Đức Phật trả lời một câu hỏi của một dạ-xoa về cội nguồn của tham, sân, sợ hãi, niệm tưởng từ đâu tới.

Đức Phật trả lời rằng tham, sân, thích, ghét, sợ hãi, niệm đều sinh khởi từ tâm còn chấp ngã, y hệt như dây leo từ ái dục đã tự mọc từ thân cây đa và rồi bao vây thân cây chằng chịt. Đức Phật nói rằng khi người tu nhìn thấy được tất cả chúng từ đâu tới, thì chúng sẽ lụi tàn, và người tu sẽ vượt qua nổi trận lụt rất khó vượt qua này, để không tái sinh nữa.

Có nghĩa là, chỉ cần nhìn thấy cội nguồn của tham, sân, thích, ghét, sợ hãi và niệm tưởng từ đâu xuất hiện, thì tất cả chúng đều sẽ lụi tàn.
   Trong Kinh Pháp Cú có câu chuyện về vị quan Santati. Khi cư ngụ tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã đọc bài Kệ 142 trong Kinh Pháp Cú, liên quan đến Santati, vị quan của Vua Pasenadi.

   Có một lần, vị quan Santati sau khi dẹp loạn ở biên giới đã trở về kinh đô. Vua Pasenadi rất hài lòng, nên thưởng cho vị quan này nhiều tài sản, và sự vinh quang. Bên cạnh, vua tặng vị quan một cô vũ nữ xinh đẹp để nhảy múa giúp vui trong bảy ngày. Trong bảy ngày, viên quan Santati say sưa với rượu, với nhan sắc và tài múa của cô vũ nữ.

Vào ngày thứ bảy, viên quan cỡi voi được trang trí lộng lẫy xuống bờ sông để tắm. Trên đường đi, viên quan gặp Đức Phật đang đi khất thực, và vì say, ông chỉ cúi chào một cách hờ hững, như một dấu hiệu của sự tôn kính đối với Đức Phật. Khi thấy Đức Phật mỉm cười, ngài Ananda hỏi Đức Phật tại sao Phật lại mỉm cười. Đức Phật trả lời Ananda rằng viên quan sẽ quay trở lại gặp Đức Phật trong ngày, và khi nghe bài pháp ngắn, viên quan sẽ trở thành một vị A la hán và chứng ngộ Niết bàn.

   Kinh kể rằng Santati và nhóm tùy tùng tới bờ sông, tắm rửa, ăn uống và tận hưởng trọn vẹn niềm vui. Vào buổi tối, vị quan và nhóm tùy tùng đã đến khu vườn để uống thêm và để ngắm cô vũ nữ múa. Cô vũ nữ đã tận lực múa để làm viên quan vui. Đột nhiên, cô vũ nữ đột quỵ, té xuống và chết, trong khi mắt mở trừng trừng và miệng há hốc.

Viên quan sốc, vô cùng đau khổ, và nhớ đến Đức Phật. Viên quan đã đến gặp Đức Phật, kể cho Phật nghe về nỗi buồn vì cái chết đột ngột của cô vũ nữ xinh đẹp. Sau đó, viên quan nói với Đức Phật, xin hãy giúp viên quan vượt qua nỗi buồn, và cho được bình an trong tâm. 

   Đức Phật trả lời viên quan rằng những giọt nước mắt của viên quan này đã rơi vì cái chết của cô vũ nữ kia trong suốt vòng luân hồi còn nhiều hơn nước của tất cả các đại dương. Sau đó, Đức Phật dạy vị quan như sau:

   Trong quá khứ, ngươi đã từng bám víu vì tham ái; hãy loại bỏ nó. Trong tương lai, đừng để sự bám víu như vậy xảy ra trong tâm nữa. Ngay trong hiện tại, đừng nuôi dưỡng bất kỳ sự bám víu nào trong hiện tại; bằng cách không có bất kỳ sự bám víu nào. Như thế, tham ái sẽ dịu lại trong tâm và ngươi sẽ chứng ngộ Niết bàn.

   Sau khi nghe bài kệ, vị quan đã đạt được quả vị A-la-hán. Nhận ra rằng tuổi thọ của mình đã kết thúc, viên quan nói với Đức Phật rằng viên quan muốn nhập Niết bàn ngay. Đức Phật đồng ý. Ngài Santati bay lên cao, vào bầu trời và nơi đó, trong khi thiền định về lửa và toàn thân bốc cháy giữa bầu trời. Xá lợi xương của vị này rơi xuống miếng vải sạch do các nhà sư trải ra theo chỉ dẫn của Đức Phật.

   Tại hội chúng, các nhà hỏi Đức Phật rằng viên quan đã chứng ngộ Niết bàn trong khi mặc đầy đủ lễ phục đời thường, nhưng có thể được gọi là một nhà sư trong thân một bà la môn hay không. Đức Phật nói rằng Santati bây giờ có thể được gọi là cả một sa môn và một bà la môn.

  Lời của Đức Phật dạy ngài Santati có thể tóm tắt là trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đừng có bám víu gì trong tâm. Câu này trong Kinh Kim Cang của Phật giáo Bắc truyền viết tóm tắt rằng, khi tâm không nơi bám víu, thì tâm Niết bàn sẽ hiển lộ ra. Đó là pháp của đốn ngộ và đốn chứng.


.... o .....
Where do greed, anger, fear, and thoughts originate?
Written and translated by Nguyên Giác

   In Zen Buddhism, it is often stated that when a bright lamp is lit, the darkness of countless eons vanishes. This metaphor is further elucidated by the idea that when a practitioner perceives the light of the original mind—where there is nothing to cling to—countless negative karmas dissipate. How do the scriptures articulate this concept?

   Thus, Zen Buddhism asserts that the Buddha exists within the mind. There is no Buddha outside of it. When we refer to a Buddha outside the mind, we are merely speaking of a statue made of cement or wood. Anything external to the mind holds no value for the practitioner's journey.

   Vietnamese Zen history recounts that when King Trần Thái Tông (1218-1277) left the capital to become a monk in the mountains, he was instructed by the Trúuc m National Master: "There is no Buddha in the mountains; the Buddha exists only in the mind. When the mind is tranquil and aware, that is the True Buddha. If you come to realize this mind, you will instantly become a Buddha, without the need to search externally.

   Having been taught in this manner, King Trần Thái Tông returned to the capital and continued to reign as king with reluctance. For over ten years, whenever he had free time, the King gathered virtuous individuals to study Zen, inquire about the Dharma, and explore Mahayana sutras. He frequently read the Diamond Sutra, and one day, upon encountering the phrase, "When the mind is not attached to anything, the mind of Nirvana will appear," the king suddenly grasped the profound meaning of Zen.

   Later, King Trần Thái Tông utilized his knowledge to compose a text titled Thiền Tông Chỉ Nam. When National Master Trúc Lâm returned from Yên Tử Mountain to visit the capital, King Trần Thái Tông invited him to stay at Thắng Nghiêm Pagoda, where he was responsible for printing the sutras. Upon presenting the book Thiền Tông Chỉ Nam to the National Master, he read it and immediately praised, "The mind of the Buddhas is fully captured here. While printing the sutras, please also print this book to educate future generations."

   That is the Buddha within the mind. When the mind does not cling to anything, the state of Nirvana emerges. In other words, when the lamp is lit, the darkness of countless eons vanishes.

  A Vietnamese Buddhist verse contains the following lines:
Because sin originates in the mind, we should repent with our minds.
When the mind is pure, sin will vanish.
The phenomenon of sin disappearing and the pure mind are, in fact, both manifestations of emptiness.
That is true repentance.

   There are four Suttas in the Pali Canon and the Agamas that record the Buddha's answer to a yakkha's question about where greed, anger, fear, and thoughts come from. They are Snp 2.5, SN 10.3, SA 1314, and SA 1324.

The Buddha explained that greed, anger, preferences, aversions, fears, and thoughts all stem from a mind that clings to the self, much like the vines of desire that grow from the trunk of a banyan tree and subsequently entangle it. He stated that when a practitioner recognizes the origins of these afflictions, they will diminish, allowing the practitioner to navigate this challenging flood and avoid rebirth.

   By simply observing the origins of greed, anger, preferences, aversions, fears, and thoughts, one can witness their eventual dissolution.

   In the Dhammapada, there is a story about Minister Santati. While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha recited Verse 142 of the Dhammapada, which narrates the tale of Santati, the minister of King Pasenadi.

Once, after quelling a rebellion at the border, the official Santati returned to the capital. King Pasenadi was very pleased and rewarded him with enormous wealth and honor. Additionally, the king gifted the official a beautiful dancer to perform for seven days. Throughout this time, the official Santati became intoxicated with wine, the dancer's beauty, and her captivating performances.

   On the seventh day, the official rode his decorated elephant to the river to bathe. Along the way, he encountered the Buddha on his alms round. Being intoxicated, he merely bowed to the Buddha indifferently as a sign of respect. Noticing the Buddha's smile, Ananda inquired about the reason for it. The Buddha responded that the official would return to see him later that day, and after hearing a brief sermon, he would become an arahant and attain Nirvana.

According to the sutra, Santati and his entourage went to the riverbank, where they bathed, ate, drank, and thoroughly enjoyed themselves. In the evening, the minister and his entourage visited the garden to drink more and watch the dancer.    The dancer performed with all her might to please the minister. Suddenly, she collapsed, fell to the ground, and died, her eyes wide open and her mouth agape.

   The official was shocked and deeply saddened, recalling the teachings of the Buddha. He went to see the Buddha and shared his sorrow over the sudden death of the beautiful dancer. The official then asked the Buddha to help him overcome his grief and find peace of mind.

   The Buddha responded to the official, stating that the tears he had shed over the dancer's death throughout countless cycles of rebirth were greater in volume than all the water in the oceans combined. He then imparted the following teachings to the official.

   In the past, you have held onto things due to craving; let go of them. In the future, do not allow such clinging to arise in your mind. In the present moment, refrain from nurturing any attachment. Avoid clinging altogether. By doing so, craving will diminish in your mind, and you will come to realize Nibbana.

   After hearing the verse, the official attained Arahantship. Realizing that his lifespan was over, he informed the Buddha of his desire to enter Nirvana immediately. The Buddha consented. Santati ascended into the sky, and while meditating on fire, his entire body ignited in flames. His bone relics fell onto a clean cloth spread out by the monks, as instructed by the Buddha.

In the assembly, the monks asked the Buddha whether an official who had attained Nirvana while wearing full official regalia, yet could be considered a monk in the body of a Brahmin, could now be referred to as both a monk and a Brahmin. The Buddha responded that Santati could indeed be called both a monk and a Brahmin.

We can summarize the Buddha's teaching to Santati as follows: in all three times—past, present, and future—do not cling to anything in the mind. This statement from the Diamond Sutra of Northern Buddhism conveys that when the mind has nothing to cling to, the mind of Nirvana will manifest. This represents the method of sudden enlightenment and realization.
.
THAM KHẢO / Reference:
- Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục: https://thuvienhoasen.org/a6695/03-tua-thien-tong-chi-nam
- Kinh Snp2.5:
Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/snp2.5/en/sujato
Bản dịch Mills: https://suttacentral.net/snp2.5/en/mills
- Kinh SN10.3:
Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/sn10.3/en/sujato
Bản dịch Minh Châu: https://suttacentral.net/sn10.3/vi/minh_chau
- SA1314, bản dịch Tuệ Sỹ & Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1314/vi/tue_sy-thang
- SA1324, bản dịch Tuệ Sỹ & Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1324/vi/tue_sy-thang
- Pháp Cú, Kệ 142: https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=142
.... o .....


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2015(Xem: 9695)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10849)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9676)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
03/09/2015(Xem: 24279)
Nói đến giáo lý Phật giáo là nói đến chữ Tâm. Ngay sau khi thành đạo, đầu tiên đức Phật thuyết về tâm (kinh Hoa Nghiêm), rồi đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật cũng đã dặn dò hàng đệ tử phải chế ngự tâm (kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Di Giáo). Phật pháp lấy tâm làm gốc. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, tất cả những điều đức Thế Tôn đã dạy, được hai phái Tiểu thừa, Đại thừa kết tập lại trong Tam tạng, đều nói đến chữ “tâm”. Đệ tử của Phật, thực hành theo những gì đức Phật đã giáo hóa, cho dù tu học theo tông phái, pháp môn nào, cũng không ngoài bốn chữ: “tu tâm dưỡng tánh”. Vậy tìm hiểu chữ tâm cho thấu đáo, khảo sát, thẩm cứu, thường xuyên quán chiếu về tâm, trộm nghĩ đó cũng là điều lý thú và hết sức cần thiết đối với hành giả, đấy chứ.
01/09/2015(Xem: 7182)
Khi ở trong ngôi nhà Nhật, sống với người Nhật trên đất nước Nhật và, được chủ nhà mời đi tắm, khách mới ngỡ ngàng nhận ra: Người Nhật không chỉ có “cung đạo”, “kiếm đạo”, “trà đạo”, “võ sĩ đạo”…, mà còn có “tắm đạo”! Cơm chiều xong khách được chủ nhà trao cho một cái túi vải lớn hơn bàn tay, thêu hoa văn xinh xắn, đầu túi có dây gút, bên trong có cái khăn tay, tuýp kem đánh răng nhỏ, bàn chải và một hộp bằng đầu ngón tay cái đựng chút chất dẻo màu hồng. Chủ nhà còn trao tận tay khách bộ Yukata (giống Kymono nhưng mỏng hơn dành mặc mùa Hè), hướng dẫn cách mặc, rồi giúp khách bới tóc gọn gàng. Nhìn mình tươm tất trong gương, khách thưa: “Chúng ta đi tiếp khách à?”. Chủ thân thiện: “Hây, mời khách đi tắm tập thể ạ.”. Điếng hồn chưa!
28/08/2015(Xem: 10029)
Con đường của Đức Phật là con đường xuất thế, từ bỏ mọi ham muốn và quyền lợi thế tục. Vì vậy, người ta ngạc nhiên khi thấy những Phật Tử thuần thành, nhất là giới xuất gia, lấy lập trường trên những vấn đề chính trị. Ngày 14 tháng Năm vừa qua, một số các vị lãnh đạo Phật giáo ở Mỹ, trong đó có vị Trưởng lão đáng kính, Thầy Bodhi, đã có một buổi họp ở Nhà Trắng để thảo luận những vấn đề quan trọng, khẩn cấp và hiện đại, trong đó có vấn đề thay đổi khí hậu. Sự kiện này đã gây ra một số phẫn nộ trên mạng; thật ra đây không phải là việc khó làm. Một số lập luận rằng tu sĩ Phật Giáo phải hoàn toàn tránh xa lãnh vực chính trị. Tuy nhiên, việc tăng sĩ tham gia vào chính trị không có gì là khác thường. Ở Thái Lan, có một đạo luật dành cho Tăng đòan. Tăng sĩ nước này đã từng tham gia các cuộc biểu tình trên đường phố, đấu tranh cho quyền lợi của mình. Dường như không có trường hợp tăng sĩ Thái Lan biểu tình đấu tranh cho quyền lợi của bất cứ ai khác .
21/08/2015(Xem: 7598)
Chùa Đa Bảo an vị trên ngọn Núi Cô Tiên, thuộc khóm Đường Đệ, phường Vĩnh Hòa, phía Bắc thành phố Nha Trang, được xây dựng vào năm 1996, do Đại đức Thích Giác Mai trụ trì. Những năm trước đây, vùng núi này đìu hiu quạnh quẽ, đường xá đi lại vô cùng gian nan khăn khó, nên rất ít ai được biết đến một tịnh thất đơn sơ mộc mạc hiện hữu trên ngọn núi cao dốc đứng này..
15/08/2015(Xem: 10254)
Đây là cuốn sách thứ 4 của cư sỹ sau 3 cuốn trước “Bài học từ người quét rác”, “Tâm từ tâm”, “Hạnh phúc thật giản đơn”. Cuốn sách là những trải nghiệm thật trong cuộc sống và công việc của ông.Mong rằng mỗi bài viết trong cuốn sách này giúp bạn đọc nhận ra gì đó mới mẻ, có thể là chiếc gương để soi lại chính mình.Và biết đâu ngộ ra được một chân ý cũng nên.Xin trân trọng giới thiệu lời mở đầu của chính tác giả cho cuốn sách mới xuất bản này.
30/07/2015(Xem: 7190)
Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâm mà thọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết. Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.
29/07/2015(Xem: 9941)
.. Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh ''những chiếc ghế ''. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những người cố chiếm cho bằng được chiếc ghế cao để ung dung hưởng thụ hoặc vênh váo với đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]