Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm hướng đi lên

01/04/201312:47(Xem: 4339)
Tìm hướng đi lên

 

TÌM HƯỚNG ĐI LÊN

Thích Minh Thông

Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp. Không một lời nào mà như sấm sét rền vang, uy lực của sự chứng ngộ đã chinh phục được tất cả mọi ngoại cảnh dù điên đảo nhứt. Đức Thế Tôn vẫn từ hòa trong chiếc y vàng cũ kỹ, bước tới nhẹ nhàng hơn cả loài nai chúa trong vườn, đưa cánh tay từ mẫn đến để nâng đỡ những người bạn cố tri đang thủ lễ. Trong năm người đang quỳ sát đất, ai cũng nhận được bài học tình thương mầu nhiệm này từ một bậc Đạo sư cao cả.

Những bước chân an trú trong chánh định, những cánh tay từ mẫn của Đức Thế Tôn và các vị Thánh tăng qua nhiều thế hệ vẫn tiếp tục biểu hiện để giáo hóa hàng vạn chúng sanh sau này đến bờ giải thoát. Ta hãy ghi nhận điều này thật sâu sát để biết rằng ba tạng giáo điển mà Đức Thế Tôn đã nói ra chỉ là phương tiện thôi. Sau này nhiều vị Tổ sư đã tránh cách phô diễn giáo pháp bằng ngôn từ diễm lệ, sợ người nghe kẹt vào nên có khi hét, có khi đánh, có khi lặng thinh câm lời mà vẫn chuyển hóa tích cực tập khí của người học đạo, mở con mắt chánh kiến của họ ra và đẩy họ tới chân trời thênh thang giải thoát. Tổ sư muốn chúng sanh quay về với chính mình để thực tập. Bằng tất cả tình thương, các ngài không muốn bất kỳ một ai mê muội dong ruổi đắm đuối tìm cầu sự giải thoát trong ngôn từ, văn cú, vì trong đó không có chất liệu nào là giải thoát cả. Áp dụng được như vậy thì mới xứng đáng đứa con giỏi của Đức Thế Tôn, tiếp nối Thế Tôn với trách nhiệm hoằng pháp. Chúng ta nhất định không để cho ngôn từ, văn cú lừa dối và kềm hãm ta. Chúng ta phải khai triển lối thuyết pháp vô ngôn thì công trình hoằng pháp của chúng ta mới gặt hái được nhiều kết quả, mới có thể làm tròn trách nhiệm, nối thành dòng thánh được. Đi bất cứ nơi nào thì ta cũng bước những bước chân an lạc như đang đi trong cõi tịnh độ. Ngồi bất cứ nơi đâu ta cũng ngồi cho vững vàng như đang ngồi dưới cội bồ đề, tâm ý không chút lãng sao. Trong khi nằm, trong khi nói, trong khi ăn… đều có hỷ có lạc thì chúng ta không cần phải lo ngại gì thêm nữa khi nghĩ tới chuyện hoằng pháp. Còn nếu trong các uy nghi đó, không có sự thành công, chúng ta vẫn còn đi trong tương lai, ngồi trong quá khứ, nằm trong mộng, đứng trong mơ thì chúng ta chưa đủ tư cách thay thế bao thế hệ tổ tiên của chúng ta để đi chia sẻ giáo pháp giải thoát của Đức Thế Tôn. Giáo pháp của Đức Thế Tôn có công năng giải thoát, người ta sẽ không tin nếu mình không có chút giải thoát nào hết. Mình không giải là một nhà truyền giáo. Mình mới học xong vài bộ kinh, thông suốt vài bộ luận, thuộc lòng vài bài thi kệ mà vội vàng bước ra thuyết giáo thì tội cho Đức Thế Tôn quá, tội cho gia nghiệp đạo Phật quá. Chúng ta hãy sống với đời sống của chính mình. Đời sống của chính mình không phải là đời sống của một pháp sư hay một Giảng sư, mà là đời sống của một tu sĩ, một hành giả. Một hành giả có rất nhiều sự tự do. Hành giả không bị ái dục, không bị tà kiến, không bị lối hưởng thụ trần tục lôi kéo. Hành giả có sự bảo hộ của giới luật. Vì giới luật có công năng bảo vệ sự tự do, nên giữ được điều giới nào thì ta có tự do nơi điều giới đó. Ví dụ như giữ gìn giới dâm dục thì hành giả sẽ được vững chãi đối với sự quyến rũ của ái dục, không có thứ cám dỗ nào thuộc về ái dục có thể xâm phạm hay làm nhiễm ô được hành giả. Giới luật chính là sự thực tập chánh niệm. Ý thức được điều này không nên làm, điều kia cần nên gìn giữ không cho sai phạm, là năng lực hùng hậu để đưa hành giả vào chánh định rồi phát sinh trí tuệ. Có trí tuệ thì không còn sợ lạc vào tà kiến. Bước vào con đường thuyết giáo làm chủ được tư duy và nói năng, không bị sa lầy vào tà kiến thì chúng ta đã đủ sức mạnh để làm hết tất cả những gì mà người hoằng pháp cần phải làm. Ai là người hoằng pháp? Câu trả lời là tất cả con của Đức Thế Tôn. Con của Đức Thế Tôn thì phải biết đi như Đức Thế Tôn đã đi, ăn như Đức Thế Tôn đã ăn, ngồi như Đức Thế Tôn đã từng ngồi. Con của Đức Thế Tôn thì phải đủ sự vững chãi, thảnh thơi và tình thương lớn. Con của Đức Thế Tôn thì phải thông minh, không bao giờ lập lại lời Thế Tôn đã nói như một cái máy, cho dù đó là những lời thuộc về đạo đế, là đệ nhứt nghĩa đế. Con của Đức Thế Tôn là phải đi tới sự chứng đạo như Đức Thế Tôn đã tới. Con của Đức Thế Tôn phải là một với Thế Tôn. Chúng ta không ngồi trong nhà của Thế Tôn, không mặc áo của Thế Tôn, không ăn cơm của Thế Tôn, không biết sử dụng ngôn ngữ từ hòa của Thế Tôn, không có khả năng lắng nghe bền bỉ của Đức Thế Tôn thì chúng ta không đủ tư cách để thay mặt Đức Thế Tôn làm bất cứ điều gì cả. Đức Thế Tôn không cho phép chúng ta dẫn dắt con cháu chúng ta đi tới chân trời giải thoát bằng con đường ngôn luận, lý thuyết suông. Đức Thế Tôn sẽ quở trách nặng nề nếu chúng ta đổ thừa tất cả những gì chúng ta nói ra đều là tuệ giác của Đức Thế Tôn, còn chúng ta chẳng có gì cả…

Chúng ta hãy tìm hướng đi lên và mở đường cho thế hệ con cháu tiếp nối có một tương lai. Chúng ta phải thiết lập lại lối hoằng pháp sao cho chính người san sẽ giáo pháp và người tiếp nhận giáo pháp đều có lợi ích. Chúng ta hãy đi với tư cách của một đàn chim, hay một dòng nước thì chúng ta sẽ vững vàng hơn, an ninh hơn và thành công hơn. Chúng ta đừng làm một con chim lẻ loi, hay một giọt nước đơn độc, vì như thế chúng ta sẽ không đủ sức vượt qua cơn bão dữ hay có thể đi về tới đại dương. Sức mạnh hòa hợp an2m tựa vững chắc cho chúng ta. Chúng ta làm gì, nói gì cũng với tư cách của Tăng đoàn chứ không phải là tư cách cá nhân. Chúng ta có khả năng sống chung an lạc với Tăng đoàn thì chúng ta mới đủ sức thiết lập đời sống hạnh phúc cho chúng sanh được. Thực tập uy nghi giới luật là điều căn bản cần thiết để chế tác định tuệ, chúng ta hãy noi gương Đức Đạo Sư của chúng ta: trước khi bắt đầu một cuộc thuyết giáo thì Ngài đã chuyển hóa và trị liệu những khổ đau của chúng sanh đang có mặt bằng sự tỏa chiếu của ánh sáng chánh niệm trước rồi. Chúng ta phải làm được chuyện này. Chúng ta không có chuyện nào quan trọng bằng chuyện này. Không làm được chuyện này thì chúng ta làm chuyện gì khác cũng là phi pháp, cũng là tà mạng. Khả năng hùng biện sẽ không là gì hết và có khi là tai hại nếu chúng ta không chế tác được chất liệu vững chãi đó cho chính mình. Đức Thế Tôn thường khen thầy Phú Nâu Na là một người hoằng pháp giỏi. Thầy Phú Lâu Na không phải vì có tài hùng biện giỏi mà thầy thành công, chỉ tại vì thầy là người có tình thương lớn, có sức chịu đựng lớn, có khả năng chuyển hóa những khó khăn bên ngoài bằng năng lực im lặng sấm sét của mình. Thầy Phú Nâu Na thuyết giáo như là thầy đang sống cho chính mình vậy. Thầy đi vào cuộc đời vững chãi như là thầy ngồi bên cạnh Đức Thế Tôn vậy, tại vì đi đâu thầy cũng mang cả Tăng đoàn theo cả. Nụ cười tươi mát, ánh mắt bao dung, cử chỉ nhún nhường mềm mỏng đều là những bài thuyết pháp hùng hồn nhứt của thầy. Chúng ta hãy chọn phong cách người hoằng pháp như thầy Phú Lâu Na thì nhất định chúng ta sẽ thành công. Chúng ta hãy tìm cho mình một hướng đi đích thực, hướng mà Đức Thế Tôn đã từng đi, thầy Phú Lâu Na, thầy Long Thọ, thầy Lâm Tế, thầy Khương Tăng Hội… đã từng đi. Chúng ta hãy đi với tư cách của người tiếp nối tiền nhân cũng là người mở đường cho con cháu của chúng ta.

Trích: Nội San CHUYỂN PHÁP LUÂN, 01-2004, GHPGVN.

---o0o---

Source: http://www.budsas.org/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 11751)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8347)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9305)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8888)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7802)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7293)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16827)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9253)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10459)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9354)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]