Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Thứ Tài Sản Không Bao Giờ Mất

25/03/202310:51(Xem: 3856)
Có Thứ Tài Sản Không Bao Giờ Mất

THỨ TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ MẤT

Thích Nữ Hằng Như   

duc-phat-va-tin-thi 

I. DẪN NHẬP

Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền! Phải có tiền mới có nhà để ở, có tiền để mua sắm quần áo che thân, mua thức ăn nuôi dưỡng cơ thể, mua sắm đồ đạc, vật dụng trong nhà. Có tiền mới có xe để di chuyển đó đây. Người nào dư tiền lắm bạc mới bàn đến việc sở hữu của cải vật chất. Người không có tiền thì cuộc sống phải chịu thiếu thốn vất vả trăm bề.

Những thứ như xe cộ, nhà cửa, đất đai, vòng vàng, đá quý, hột xoàn, tiền bạc v.v...  gom chung lại đó là tài sản của con người. Sống ở đời ai cũng mong có tài sản. Nhìn chung, tài sản của cải được xem là phần quan trọng, luôn là niềm mơ ước của mọi người. Nhưng ở đời không ai giữ mãi tài sản của cải kiếm được. Hoặc vả, có giữ được một thời gian, đến lúc già yếu bệnh hoạn, thì tiền bạc cũng theo đó mà tiêu hao nhiều không kể xiết. Của cải vật chất là thứ ngoài thân, khi con người thân hoại mạng chung có ai mang theo của cải qua bên kia thế giới được đâu! Cho dù các ông vua bà chúa ngày xưa khi chết đi, của cải tuy được tống táng theo xác chết, nhưng rồi những thứ đó cũng có ngày bị người ta quật mồ cướp đi!

Trong nhiều bài kinh, đức Phật đã từng giảng tài sản vật chất tiền bạc, vòng vàng, đất đai, nhà cửa.... không bao giờ trụ mãi một chỗ với chúng ta vì lý do này hay lý do khác. Chẳng hạn như của cải tiền bạc có thể bị mất sạch do giông bảo lụt lội cuốn trôi, hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi, hay bị kẻ gian trộm mất, hoặc chính người thân trong gia đình ỷ vào tài sản sẵn có, thẳng tay tiêu pha vào những thú vui không lành mạnh... để rồi một ngày nào đó cũng tán gia bại sản.  Ngoài ra, nếu làm giàu phi pháp, người sở hữu tài sản có nguy cơ vào tù và số tài sản kiếm được sẽ bị công quyền hay vua chúa tịch thu toàn bộ. Cho nên mới nói tài sản vật chất của con người là thứ không bền vững ở thế gian này.  Bên cạnh thứ tài sản không bền vững đó, đức Phật cũng dạy có một thứ tài sản không bao giờ mất, đó là Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Trí tài.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh III, chương Bảy, phẩm Tài Sản, phần “Các Tài Sản Rộng Thuyết” có ghi lại lời dạy của đức Thế Tôn về loại tài sản không bao giờ mất này như sau:

 

II. PHẬT THUYẾT VỀ

BẢY LOẠI TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ BỊ MẤT

Kinh văn:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika (Cấp-Cô-Độc). Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

 - Này các Tỷ-kheo.

- Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế tôn, Thế Tôn nói như sau:

- Này các Tỷ-kheo có bảy tài sản này, thế nào là bảy? Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài. 

1) Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là Tín tài.

2) Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa men rượu, gọi là Giới tài.

3) Ở đây, vị Thánh đệ tử có xấu hổ với thân, miệng, ý làm ác, gọi là Tàm tài.

4) Ở đây, vị Thánh đệ tử có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là Quý tài.

5) Ở đây, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu Chánh kiến, gọi là Văn tài.

6) Ở đây, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả bỏ, san sẻ vật bố thí, gọi là Thí tài.

7) Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, gọi là Tuệ tài.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này, được gọi là không nghèo khổ. (hết trích)

                                       III. TÌM HIỂU Ý NGHĨA BÀI KINH

Đối với các đệ tử xuất gia, việc sở hữu tài sản của cải vật chất dư thừa là trái giới luật Phật ban. Người xuất gia chỉ sở hữu tài sản giới hạn là ba y, một bình bát, thuốc men vừa đủ. Hằng ngày các Tỷ-kheo đi “khất thực” nuôi thân, thứ nhất để rèn luyện tánh khiêm hạ, hướng về vô ngã; thứ hai là tạo phước cho thí chủ tu tập hạnh bố thí. Thí chủ cúng dường gì, thì Tỷ-kheo độ nấy, không phân biệt, chê khen, vì nhà Phật quan niệm thức ăn chỉ với mục đích không để thân ốm đói bệnh hoạn, mà chỉ giúp thân được khỏe để mà tu.

Đối với cư sĩ tại gia, đức Phật không cấm họ sở hữu tài sản vật chất. Nhưng Ngài cũng khuyến cáo các loại tài sản vật chất này thường bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự và những người thù địch. Bên cạnh đó Ngài cũng giới thiệu bảy loại tài sản không bao giờ bị mất. Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần,  như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.

Tín tài: Tín là niềm tin, tài là ám chỉ tiền bạc, của cải. Tín tài ở đây có nghĩa  là niềm tin sâu sắc của người cư sĩ về sự giác ngộ của đức Như Lai. Tin rằng Ngài là bậc Ứng Cúng/A-la-hán (bậc đáng cho Thiên, Nhơn cúng dường), Chánh Biến Tri (bậc thông hiểu đúng đắn không giới hạn), Minh Hạnh Túc (bậc đầy đủ tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh), Thiện Thệ (Thiện: Khéo; Thệ: Vượt qua; Thiện Thệ là bậc khéo vượt qua các cõi thế giới và các cõi Trời), Thế Gian Giải (là bậc hiểu thấu tất cả pháp ở thế gian), Vô Thượng Sĩ (đấng vô thượng không ai sánh bằng), Điều Ngự Trượng Phu  (đấng chinh phục được tất cả mọi người), Thiên Nhân Sư (Thầy của Trời và Người), Phật (phiên âm của chữ Buddha, là đấng giác ngộ), Thế Tôn (cả Trời và Người đều tôn quý kính trọng Ngài).

Người có Tín tâm không chỉ đặt niềm tin đức Thế Tôn là bậc toàn giác, mà còn tin sâu vào những lời dạy của Ngài. Chẳng hạn như tin sâu vào thuyết nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu đau khổ. Người có niềm tin như vậy là người có lòng tin chân chánh, đức Thế Tôn nói người đó có đầy đủ Tín tài.

 2) Giới tài: Những ai giữ đúng giới hạnh, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa tà hạnh trong các dục, không nói dối, không nói dối hai lưỡi gây hiềm khích giữa những người quen nhau, không nói lời ác độc, không nói chuyện phù phiếm, không đắm say rượu men rượu nấu. Người nào thực thi được những điều trên đây, đức Thế Tôn nói người đó có đủ Giới tài. 

3) Tàm tài: Người có tâm Tàm, là người tự thấy hỗ thẹn khi lỡ phạm lỗi mặc dù không ai biết, qua ba phạm trù thân, khẩu, ý. Khi nhớ lại, lương tâm người ấy bị cắn rứt, xấu hỗ, ăn năn hối cãi, tự hứa không tái phạm.  Đức Thế Tôn bảo rằng người này có tài sản về Tàm. 

4) Quý tài: Quý là tâm e ngại, sợ hãi hậu quả của hành vi sai trái. Quý cũng có nghĩa là cảm thấy hỗ thẹn khi  bày tỏ tội lỗi của mình với người khác. Do lòng sợ hãi hậu quả xấu, nên người ấy không dám làm các điều ác. Do vậy mà ba nghiệp thân, khẩu, ý  được trong sạch. Người như thế, đức Thế Tôn nói người đó có Quý tài.   

5) Văn tài: Văn là nghe lời giảng dạy của các bậc Chân nhân về Pháp Phật bao gồm Pháp học và Pháp hành. Chẳng hạn như Tứ thánh đế, Lý duyên khởi pháp duyên sanh, Thuyết Nhân quả. Các phương thức thực hành về Quán, Chỉ, Định, Huệ v.v... Ghi nhận những gì đã nghe, tư duy hiểu rõ những điều đã nghe, thành tựu chánh kiến, chánh tư duy. Những người này được đức Thế Tôn ghi nhận là có Văn tài. 

6) Thí tài: Thí nói cho đủ theo giáo lý nhà Phật là “Bố thí”. Bố thí nghĩa là trao tặng, hiến tặng, làm việc phước thiện hay cúng dường phẩm vật đến các vị Tỷ-kheo. Trong kinh dạy có ba loại bố thí là: Bố thí tài vật, bố thí pháp vô úy thí.

- Bố thí tài vật: Gồm có ngoại tài và nội tài. Ngoại tài như thức ăn, thức uống, y phục, đóng góp công sức tiền bạc vào các công tác đắp đường, làm cầu giúp cho người dân sống ở nơi lầy lội, sông hồ, bớt gặp nguy hiểm trong việc đi lại, hay giúp đào giếng ở vùng cao khô giúp cho người dân có nước tiêu xài  tắm gội v.v... Nội tài là hiến tặng các bộ phận hay ngay cả mạng sống của mình. Ngày nay nhiều người tình nguyện tặng máu tươi của mình cho bệnh viện để cứu người bệnh thiếu máu. Rất nhiều người ký giấy hiến tặng cả cơ thể cho y học hay từng phần nội tạng khi vừa mới qua đời để cứu sống các bệnh nhân đang cần được thay thế một phần nào đó trong cơ thể như da, mắt, tim, gan, thận v.v...

- Bố thí pháp: Là truyền đạt giáo lý đạo Phật, giảng dạy các phương pháp thực hành chuyển hóa khổ đau như thiền định, tứ vô lượng tâm, bát chánh đạo v.v... để người nghe biết cách tu tập giác ngộ và giải thoát.

- Vô úy thí: Con người sống ở đời có nhiều sợ hãi, như sợ tai nạn, sợ mất người thân, sợ làm ăn thua lỗ, sợ mất nhà mất cửa, sợ con cái hư hỏng và cái sợ lớn nhất vẫn là sợ chết. Tất cả những nỗi sợ đó khiến người ta dễ mắc bệnh trầm cảm, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt bi quan. Người biết tu hiểu rằng những chuyện xấu hay tốt xảy ra cho đời người đều có nguyên do của nó. Tin vào nhân quả người ấy chấp nhận, vượt qua nỗi khổ, và không còn cảm thấy sợ hãi nữa.  Khi bản thân người ấy có đủ đạo lực, đủ niềm tin thì người ấy có khả năng an ủi, trấn an, giải thích giúp cho người ta thoát được sự sợ hãi nếu có. Làm được việc này xem như là người ấy đã thực hành hạnh Vô Úy thí vậy!

Tóm lại người có tâm bố thí là người xả bỏ tánh xan tham, ích kỷ, sẵn sàng chia xẻ giúp đỡ mọi người về mặt vật chất lẫn tinh thần. Người như vậy là người có Thí tài. 

7) Tuệ tài: Tuệ nói cho đủ là trí tuệ. Có hai loại trí tuệ. Một là trí tuệ thế gian do học hỏi từ cha mẹ, từ các bậc Thầy, từ kinh nghiệm sống trong cộng đồng xã hội... hun đúc sự hiểu biết do sự học hỏi đó, thành kho tàng kiến thức của mình. Đây là sự hiểu biết của ý căn, ý thức và trí năng, còn gọi là kiến thức thế gian.

Còn Trí tuệ trong đạo Phật, Phạn ngữ gọi là Prajna, tiếng Pali là Panna, người Trung Hoa dịch âm là Bát-nhã hay Đại trí tuệ (Maha Bát-Nhã..).  Câu kinh “Quán Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-la-mật đa thời chiếu kiến....”, ý nghĩa của cụm từ “Bát-Nhã Ba-la-mật” ở đây chính là trí tuệ thâm sâu, là sự hiểu biết toàn diện, có tính chất trực giác, siêu vượt, không dựa trên lý luận, khái niệm hay ngôn từ. Trí tuệ này do hành giả tu tập hành trì thể nhập thâm sâu, nhận ra được tánh Không của các chân lý Tứ thánh đế, Lý duyên khởi v.v....

Nói chung, trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết trọn vẹn giáo lý của đạo Phật, tinh tấn hành trì theo Bát chánh đạo, phá vỡ màn vô minh, nhận ra sự thật của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã. Nhận ra tất cả mọi thứ trên đời hễ có sanh thì có diệt nên không còn chấp trước mọi thứ trên đời, người ấy đoạn diệt sầu khổ, thành tựu Chánh trí... Người có trí tuệ như vậy, đức Thế Tôn cho rằng đây là người có Tuệ tài.

Sau khi nêu lên các tài sản thuộc về tinh thần, đức Thế Tôn kết luận những ai có đủ bảy loại “tài sản” này, sẽ là người không lâm vào hoàn cảnh nghèo khổ, nghĩa là cuộc sống của người này được giàu sang vì không “nghèo”, và hạnh phúc an lạc vì không “khổ”.

 

IV. KẾT LUẬN

Qua bài kinh này, chúng ta nhận ra tài sản của người biết tu khác hẳn với tài sản của người thế tục. Tài sản của người không biết tu, thường đưa đến lòng tham không biết đủ. Được một muốn thêm hai, được hai muốn thêm ba, được ba muốn thêm bốn... và như thế người này luôn chạy theo tiền tài vật chất khiến cho thân tâm không lúc nào được thảnh thơi an ổn. Có khi vì mê tiền bạc giàu có mà quên cả đạo đức, dính vào lao lý vì đồng tiền kiếm được là đồng tiền phi nghĩa, phạm pháp. Tiền phi nghĩa sẽ bị tịch thu toàn bộ là điều đương nhiên, nhưng tiền bạc hay của cải kiếm được chân chánh cũng không chắc giữ được vì thiên tai hỏa hoạn, lụt lội, hoặc trộm cắp ... cho nên loại tiền bạc của cải này, tuy không cánh mà sẽ dễ dàng bay mất. Hoặc khi thân hoại mạng chung, nhà cửa, xe cộ, vòng vàng, đất đai... không theo mình, nó ở lại thế gian qua tay người khác.

Người cư sĩ biết tu thực hiện nếp sống thiểu dục tri túc, biết tiết kiệm, không để tham sân si chiếm lĩnh cuộc đời mình. Đặt lòng tin nơi Tam Bảo, biết giữ Giới, biết Tàm Quý, tu hạnh Bố Thí,  siêng  nghe giảng pháp, thực hành chánh niệm,  thiền định, thiền quán, phát huy trí huệ.  Các yếu tố này chính là thứ tài sản thuộc về tinh thần, tuy không cụ thể nhưng giá trị của nó không gì cao quý bằng!

Nhờ đầy đủ Tín, Giới, Tàm, Quý, Văn, Thí, Tuệ, mà người biết tu nhận ra mọi thứ tài sản vật chất trên thế gian này đều hư huyễn, phù du, tạm bợ.  Xem nó là phương tiện giúp đáp ứng các nhu cầu về vật chất để có một đời sống ổn định, giúp người ta thực hiện những ý nguyện cao cả có lợi cho mình và cho người xung quanh. Nghĩ như vậy, nhận ra như vậy, người biết tu sẽ tự động yểm ly tham ái, xa lìa chấp thủ, vô cầu, vô dục... nên tâm không lo lắng, phiền muộn.

Bảy tài sản tinh thần này như lời đức Thế Tôn xác nhận sẽ không bao giờ mất, nó nâng cao giá trị phẩm cách của người sở hữu nó. Nhờ tạo nhân thiện lành, từ bi trí tuệ ở đời hiện tại nên đời sống được an lành hạnh phúc. Quả lành không mất mà tiếp tục trổ ở đời sống tương lai, trừ phi chính mình phóng dật buông bỏ, rời xa đời sống tâm linh, cam tâm làm nô lệ cho khát ái dục vọng thì hậu quả sẽ khó lường. Trước khi khép lại bài viết này, kính nguyện mọi người con Phật mau sớm sở hữu bảy thứ tài sản tâm linh mà đức Thế Tôn vì lòng từ bi giảng dạy cho chúng ta.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Thiền Viện Chân Như, Navasota, Texas

(An Cư Kiết Xuân, 24/3/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2020(Xem: 5713)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
02/12/2020(Xem: 6021)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 9088)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6362)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5806)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6976)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5713)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
26/11/2020(Xem: 5580)
Chín năm về trước, trang báo điện tử Phật giáo Indonesia “BuddhaZine” đã cùng nhịp bước với thời đại của thế giới thông tin truyền thống với sự tiến bộ của công nghệ internet. Sự hiện diện của “BuddhaZine” như một phương tiện truyền thông Phật giáo trực tuyến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ truyền thông hiện đại, bước sang thiên niên kỷ mới này đã quen thuộc với thế hệ trẻ thanh thiếu niên, và đã được sự hoan nghênh đón nhận của cộng đồng Phật giáo và cư dân mạng, trên hành trình khiến “BuddhaZine” trở thành một tổ chức truyền thông quan trọng, và phát triển “Phật pháp với Nhân sinh” (Buddha Dharma, 佛法與人生), trong cộng đồng trên đất nước vạn đảo này.
26/11/2020(Xem: 10102)
“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”. Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.
26/11/2020(Xem: 6984)
Từ hơn chục năm qua tôi vẫn tận dụng từng giờ trong ngày còn lại để nghe pháp, học pháp và chiêm nghiệm về những lời dạy của Cổ nhân hay Giảng Sư sau thời gian cần phải có và cần thiết cho nhu cầu trong đời sống con người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]