Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Thứ Tài Sản Không Bao Giờ Mất

25/03/202310:51(Xem: 3888)
Có Thứ Tài Sản Không Bao Giờ Mất

THỨ TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ MẤT

Thích Nữ Hằng Như   

duc-phat-va-tin-thi 

I. DẪN NHẬP

Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền! Phải có tiền mới có nhà để ở, có tiền để mua sắm quần áo che thân, mua thức ăn nuôi dưỡng cơ thể, mua sắm đồ đạc, vật dụng trong nhà. Có tiền mới có xe để di chuyển đó đây. Người nào dư tiền lắm bạc mới bàn đến việc sở hữu của cải vật chất. Người không có tiền thì cuộc sống phải chịu thiếu thốn vất vả trăm bề.

Những thứ như xe cộ, nhà cửa, đất đai, vòng vàng, đá quý, hột xoàn, tiền bạc v.v...  gom chung lại đó là tài sản của con người. Sống ở đời ai cũng mong có tài sản. Nhìn chung, tài sản của cải được xem là phần quan trọng, luôn là niềm mơ ước của mọi người. Nhưng ở đời không ai giữ mãi tài sản của cải kiếm được. Hoặc vả, có giữ được một thời gian, đến lúc già yếu bệnh hoạn, thì tiền bạc cũng theo đó mà tiêu hao nhiều không kể xiết. Của cải vật chất là thứ ngoài thân, khi con người thân hoại mạng chung có ai mang theo của cải qua bên kia thế giới được đâu! Cho dù các ông vua bà chúa ngày xưa khi chết đi, của cải tuy được tống táng theo xác chết, nhưng rồi những thứ đó cũng có ngày bị người ta quật mồ cướp đi!

Trong nhiều bài kinh, đức Phật đã từng giảng tài sản vật chất tiền bạc, vòng vàng, đất đai, nhà cửa.... không bao giờ trụ mãi một chỗ với chúng ta vì lý do này hay lý do khác. Chẳng hạn như của cải tiền bạc có thể bị mất sạch do giông bảo lụt lội cuốn trôi, hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi, hay bị kẻ gian trộm mất, hoặc chính người thân trong gia đình ỷ vào tài sản sẵn có, thẳng tay tiêu pha vào những thú vui không lành mạnh... để rồi một ngày nào đó cũng tán gia bại sản.  Ngoài ra, nếu làm giàu phi pháp, người sở hữu tài sản có nguy cơ vào tù và số tài sản kiếm được sẽ bị công quyền hay vua chúa tịch thu toàn bộ. Cho nên mới nói tài sản vật chất của con người là thứ không bền vững ở thế gian này.  Bên cạnh thứ tài sản không bền vững đó, đức Phật cũng dạy có một thứ tài sản không bao giờ mất, đó là Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Trí tài.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh III, chương Bảy, phẩm Tài Sản, phần “Các Tài Sản Rộng Thuyết” có ghi lại lời dạy của đức Thế Tôn về loại tài sản không bao giờ mất này như sau:

 

II. PHẬT THUYẾT VỀ

BẢY LOẠI TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ BỊ MẤT

Kinh văn:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika (Cấp-Cô-Độc). Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

 - Này các Tỷ-kheo.

- Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế tôn, Thế Tôn nói như sau:

- Này các Tỷ-kheo có bảy tài sản này, thế nào là bảy? Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài. 

1) Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là Tín tài.

2) Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa men rượu, gọi là Giới tài.

3) Ở đây, vị Thánh đệ tử có xấu hổ với thân, miệng, ý làm ác, gọi là Tàm tài.

4) Ở đây, vị Thánh đệ tử có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là Quý tài.

5) Ở đây, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu Chánh kiến, gọi là Văn tài.

6) Ở đây, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả bỏ, san sẻ vật bố thí, gọi là Thí tài.

7) Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, gọi là Tuệ tài.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này, được gọi là không nghèo khổ. (hết trích)

                                       III. TÌM HIỂU Ý NGHĨA BÀI KINH

Đối với các đệ tử xuất gia, việc sở hữu tài sản của cải vật chất dư thừa là trái giới luật Phật ban. Người xuất gia chỉ sở hữu tài sản giới hạn là ba y, một bình bát, thuốc men vừa đủ. Hằng ngày các Tỷ-kheo đi “khất thực” nuôi thân, thứ nhất để rèn luyện tánh khiêm hạ, hướng về vô ngã; thứ hai là tạo phước cho thí chủ tu tập hạnh bố thí. Thí chủ cúng dường gì, thì Tỷ-kheo độ nấy, không phân biệt, chê khen, vì nhà Phật quan niệm thức ăn chỉ với mục đích không để thân ốm đói bệnh hoạn, mà chỉ giúp thân được khỏe để mà tu.

Đối với cư sĩ tại gia, đức Phật không cấm họ sở hữu tài sản vật chất. Nhưng Ngài cũng khuyến cáo các loại tài sản vật chất này thường bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự và những người thù địch. Bên cạnh đó Ngài cũng giới thiệu bảy loại tài sản không bao giờ bị mất. Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần,  như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.

Tín tài: Tín là niềm tin, tài là ám chỉ tiền bạc, của cải. Tín tài ở đây có nghĩa  là niềm tin sâu sắc của người cư sĩ về sự giác ngộ của đức Như Lai. Tin rằng Ngài là bậc Ứng Cúng/A-la-hán (bậc đáng cho Thiên, Nhơn cúng dường), Chánh Biến Tri (bậc thông hiểu đúng đắn không giới hạn), Minh Hạnh Túc (bậc đầy đủ tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh), Thiện Thệ (Thiện: Khéo; Thệ: Vượt qua; Thiện Thệ là bậc khéo vượt qua các cõi thế giới và các cõi Trời), Thế Gian Giải (là bậc hiểu thấu tất cả pháp ở thế gian), Vô Thượng Sĩ (đấng vô thượng không ai sánh bằng), Điều Ngự Trượng Phu  (đấng chinh phục được tất cả mọi người), Thiên Nhân Sư (Thầy của Trời và Người), Phật (phiên âm của chữ Buddha, là đấng giác ngộ), Thế Tôn (cả Trời và Người đều tôn quý kính trọng Ngài).

Người có Tín tâm không chỉ đặt niềm tin đức Thế Tôn là bậc toàn giác, mà còn tin sâu vào những lời dạy của Ngài. Chẳng hạn như tin sâu vào thuyết nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu đau khổ. Người có niềm tin như vậy là người có lòng tin chân chánh, đức Thế Tôn nói người đó có đầy đủ Tín tài.

 2) Giới tài: Những ai giữ đúng giới hạnh, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa tà hạnh trong các dục, không nói dối, không nói dối hai lưỡi gây hiềm khích giữa những người quen nhau, không nói lời ác độc, không nói chuyện phù phiếm, không đắm say rượu men rượu nấu. Người nào thực thi được những điều trên đây, đức Thế Tôn nói người đó có đủ Giới tài. 

3) Tàm tài: Người có tâm Tàm, là người tự thấy hỗ thẹn khi lỡ phạm lỗi mặc dù không ai biết, qua ba phạm trù thân, khẩu, ý. Khi nhớ lại, lương tâm người ấy bị cắn rứt, xấu hỗ, ăn năn hối cãi, tự hứa không tái phạm.  Đức Thế Tôn bảo rằng người này có tài sản về Tàm. 

4) Quý tài: Quý là tâm e ngại, sợ hãi hậu quả của hành vi sai trái. Quý cũng có nghĩa là cảm thấy hỗ thẹn khi  bày tỏ tội lỗi của mình với người khác. Do lòng sợ hãi hậu quả xấu, nên người ấy không dám làm các điều ác. Do vậy mà ba nghiệp thân, khẩu, ý  được trong sạch. Người như thế, đức Thế Tôn nói người đó có Quý tài.   

5) Văn tài: Văn là nghe lời giảng dạy của các bậc Chân nhân về Pháp Phật bao gồm Pháp học và Pháp hành. Chẳng hạn như Tứ thánh đế, Lý duyên khởi pháp duyên sanh, Thuyết Nhân quả. Các phương thức thực hành về Quán, Chỉ, Định, Huệ v.v... Ghi nhận những gì đã nghe, tư duy hiểu rõ những điều đã nghe, thành tựu chánh kiến, chánh tư duy. Những người này được đức Thế Tôn ghi nhận là có Văn tài. 

6) Thí tài: Thí nói cho đủ theo giáo lý nhà Phật là “Bố thí”. Bố thí nghĩa là trao tặng, hiến tặng, làm việc phước thiện hay cúng dường phẩm vật đến các vị Tỷ-kheo. Trong kinh dạy có ba loại bố thí là: Bố thí tài vật, bố thí pháp vô úy thí.

- Bố thí tài vật: Gồm có ngoại tài và nội tài. Ngoại tài như thức ăn, thức uống, y phục, đóng góp công sức tiền bạc vào các công tác đắp đường, làm cầu giúp cho người dân sống ở nơi lầy lội, sông hồ, bớt gặp nguy hiểm trong việc đi lại, hay giúp đào giếng ở vùng cao khô giúp cho người dân có nước tiêu xài  tắm gội v.v... Nội tài là hiến tặng các bộ phận hay ngay cả mạng sống của mình. Ngày nay nhiều người tình nguyện tặng máu tươi của mình cho bệnh viện để cứu người bệnh thiếu máu. Rất nhiều người ký giấy hiến tặng cả cơ thể cho y học hay từng phần nội tạng khi vừa mới qua đời để cứu sống các bệnh nhân đang cần được thay thế một phần nào đó trong cơ thể như da, mắt, tim, gan, thận v.v...

- Bố thí pháp: Là truyền đạt giáo lý đạo Phật, giảng dạy các phương pháp thực hành chuyển hóa khổ đau như thiền định, tứ vô lượng tâm, bát chánh đạo v.v... để người nghe biết cách tu tập giác ngộ và giải thoát.

- Vô úy thí: Con người sống ở đời có nhiều sợ hãi, như sợ tai nạn, sợ mất người thân, sợ làm ăn thua lỗ, sợ mất nhà mất cửa, sợ con cái hư hỏng và cái sợ lớn nhất vẫn là sợ chết. Tất cả những nỗi sợ đó khiến người ta dễ mắc bệnh trầm cảm, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt bi quan. Người biết tu hiểu rằng những chuyện xấu hay tốt xảy ra cho đời người đều có nguyên do của nó. Tin vào nhân quả người ấy chấp nhận, vượt qua nỗi khổ, và không còn cảm thấy sợ hãi nữa.  Khi bản thân người ấy có đủ đạo lực, đủ niềm tin thì người ấy có khả năng an ủi, trấn an, giải thích giúp cho người ta thoát được sự sợ hãi nếu có. Làm được việc này xem như là người ấy đã thực hành hạnh Vô Úy thí vậy!

Tóm lại người có tâm bố thí là người xả bỏ tánh xan tham, ích kỷ, sẵn sàng chia xẻ giúp đỡ mọi người về mặt vật chất lẫn tinh thần. Người như vậy là người có Thí tài. 

7) Tuệ tài: Tuệ nói cho đủ là trí tuệ. Có hai loại trí tuệ. Một là trí tuệ thế gian do học hỏi từ cha mẹ, từ các bậc Thầy, từ kinh nghiệm sống trong cộng đồng xã hội... hun đúc sự hiểu biết do sự học hỏi đó, thành kho tàng kiến thức của mình. Đây là sự hiểu biết của ý căn, ý thức và trí năng, còn gọi là kiến thức thế gian.

Còn Trí tuệ trong đạo Phật, Phạn ngữ gọi là Prajna, tiếng Pali là Panna, người Trung Hoa dịch âm là Bát-nhã hay Đại trí tuệ (Maha Bát-Nhã..).  Câu kinh “Quán Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-la-mật đa thời chiếu kiến....”, ý nghĩa của cụm từ “Bát-Nhã Ba-la-mật” ở đây chính là trí tuệ thâm sâu, là sự hiểu biết toàn diện, có tính chất trực giác, siêu vượt, không dựa trên lý luận, khái niệm hay ngôn từ. Trí tuệ này do hành giả tu tập hành trì thể nhập thâm sâu, nhận ra được tánh Không của các chân lý Tứ thánh đế, Lý duyên khởi v.v....

Nói chung, trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết trọn vẹn giáo lý của đạo Phật, tinh tấn hành trì theo Bát chánh đạo, phá vỡ màn vô minh, nhận ra sự thật của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã. Nhận ra tất cả mọi thứ trên đời hễ có sanh thì có diệt nên không còn chấp trước mọi thứ trên đời, người ấy đoạn diệt sầu khổ, thành tựu Chánh trí... Người có trí tuệ như vậy, đức Thế Tôn cho rằng đây là người có Tuệ tài.

Sau khi nêu lên các tài sản thuộc về tinh thần, đức Thế Tôn kết luận những ai có đủ bảy loại “tài sản” này, sẽ là người không lâm vào hoàn cảnh nghèo khổ, nghĩa là cuộc sống của người này được giàu sang vì không “nghèo”, và hạnh phúc an lạc vì không “khổ”.

 

IV. KẾT LUẬN

Qua bài kinh này, chúng ta nhận ra tài sản của người biết tu khác hẳn với tài sản của người thế tục. Tài sản của người không biết tu, thường đưa đến lòng tham không biết đủ. Được một muốn thêm hai, được hai muốn thêm ba, được ba muốn thêm bốn... và như thế người này luôn chạy theo tiền tài vật chất khiến cho thân tâm không lúc nào được thảnh thơi an ổn. Có khi vì mê tiền bạc giàu có mà quên cả đạo đức, dính vào lao lý vì đồng tiền kiếm được là đồng tiền phi nghĩa, phạm pháp. Tiền phi nghĩa sẽ bị tịch thu toàn bộ là điều đương nhiên, nhưng tiền bạc hay của cải kiếm được chân chánh cũng không chắc giữ được vì thiên tai hỏa hoạn, lụt lội, hoặc trộm cắp ... cho nên loại tiền bạc của cải này, tuy không cánh mà sẽ dễ dàng bay mất. Hoặc khi thân hoại mạng chung, nhà cửa, xe cộ, vòng vàng, đất đai... không theo mình, nó ở lại thế gian qua tay người khác.

Người cư sĩ biết tu thực hiện nếp sống thiểu dục tri túc, biết tiết kiệm, không để tham sân si chiếm lĩnh cuộc đời mình. Đặt lòng tin nơi Tam Bảo, biết giữ Giới, biết Tàm Quý, tu hạnh Bố Thí,  siêng  nghe giảng pháp, thực hành chánh niệm,  thiền định, thiền quán, phát huy trí huệ.  Các yếu tố này chính là thứ tài sản thuộc về tinh thần, tuy không cụ thể nhưng giá trị của nó không gì cao quý bằng!

Nhờ đầy đủ Tín, Giới, Tàm, Quý, Văn, Thí, Tuệ, mà người biết tu nhận ra mọi thứ tài sản vật chất trên thế gian này đều hư huyễn, phù du, tạm bợ.  Xem nó là phương tiện giúp đáp ứng các nhu cầu về vật chất để có một đời sống ổn định, giúp người ta thực hiện những ý nguyện cao cả có lợi cho mình và cho người xung quanh. Nghĩ như vậy, nhận ra như vậy, người biết tu sẽ tự động yểm ly tham ái, xa lìa chấp thủ, vô cầu, vô dục... nên tâm không lo lắng, phiền muộn.

Bảy tài sản tinh thần này như lời đức Thế Tôn xác nhận sẽ không bao giờ mất, nó nâng cao giá trị phẩm cách của người sở hữu nó. Nhờ tạo nhân thiện lành, từ bi trí tuệ ở đời hiện tại nên đời sống được an lành hạnh phúc. Quả lành không mất mà tiếp tục trổ ở đời sống tương lai, trừ phi chính mình phóng dật buông bỏ, rời xa đời sống tâm linh, cam tâm làm nô lệ cho khát ái dục vọng thì hậu quả sẽ khó lường. Trước khi khép lại bài viết này, kính nguyện mọi người con Phật mau sớm sở hữu bảy thứ tài sản tâm linh mà đức Thế Tôn vì lòng từ bi giảng dạy cho chúng ta.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Thiền Viện Chân Như, Navasota, Texas

(An Cư Kiết Xuân, 24/3/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2015(Xem: 8636)
Vạn Dặm Rong Chơi, Đường Rộng Mở _ Thích Từ Lực
01/10/2015(Xem: 7215)
Tu là gì ? “Tu là quá trình: 1/ quán chiếu nội tâm, 2/ làm triệt tiêu bản ngã và 3/ chuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
30/09/2015(Xem: 6856)
Phật giáo Khánh Hòa từng tạo những sự kiện lớn trong bao năm qua, việc tổ chức kỷ niệm 25 năm thành lập trường Trung cấp Phật học điểm thêm dấu son vào giáo sử tỉnh nhà, như từng lưu dấu suốt thời chấn hưng Phật giáo mà Khánh Hòa là một trong những địa phương từng được các bậc chân đức như cố Hòa Thượng T.Đổng Minh, cố HT T.Trí Nghiêm, cố HT T.Chí Tín, cố HT T.Trí Thủ, cố HT T.Thiện Minh, cố HT T.Thiện Siêu, cố HT T.Huyền Quang... góp công hình thành Phật sự.
28/09/2015(Xem: 10757)
Hôm chủ nhật cuối tuần ngày 20.09.2015, lớp ngành Thanh Gia Đình Phật Tử Tâm Minh tại Chùa Viên Giác, Hannover do mình hướng dẫn đã thảo luận về đề tài "Duyên Khởi và Dòng người tỵ nạn tại Âu Châu". Vì sao mình chọn đề tài nóng bỏng này cho các em thảo luận? Bởi các em là những thanh thiếu niên đã có bằng tú tài hoặc đang học đại học, cần có một cái nhìn mọi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cũng như ngay chính bản thân mình bằng lăng kính giáo lý Phật Đà, để phát lòng từ bi rộng lớn, chứ không phải từ bi "có điều kiện"! Điều này sẽ giúp cho các em tăng thêm sự hiểu biết về giáo lý thực dụng của Đức Thế Tôn khi trao đổi với bạn bè khác trong trường. Là một Phật tử, ta nên tập quán chiếu mọi pháp thế gian qua lăng kính Phật Giáo, thì sẽ nhận ra được "Phật pháp không ngoài thế gian giác!"
27/09/2015(Xem: 6164)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10473)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 8169)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 8590)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9255)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9310)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]