Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dứt Bỏ Ảo Tình

16/01/202222:38(Xem: 8910)
Dứt Bỏ Ảo Tình

Dứt Bỏ Ảo Tình
DỨT BỎ ẢO TÌNH
 
Một thời Đức Phật Thích Ca
Ở thành Xá Vệ, nhà nhà an vui,
Ngài đi giáo hóa khắp nơi
Lời vàng thuyết pháp giúp đời thiết tha.
Có người ngoại đạo phương xa
Vì nghe danh Phật tìm qua gặp ngài
Quản chi vất vả đường dài
Mong nghe ngài dạy những lời gấm hoa.
Nhiều ngày vất vả trôi qua
Cuối cùng người khách phương xa tới thành
Ruộng đồng Xá Vệ tươi xanh
Khách dừng chân nghỉ, nhìn quanh ngắm trời
Ruộng bên khách thấy hai người
Một già, một trẻ cuốc nơi ven đồng.
*
Chợt nghe tiếng thét hãi hùng
Chàng trai gục xuống vũng bùn mê man
Lão ông vứt cuốc chạy sang
Mới hay rắn độc trong hang cắn người
Chàng trai đã chết mất rồi
Lão ông buồn thoáng, xong thời thản nhiên
Trở về cuốc đất lại liền
Khách xa thấy vậy ngạc nhiên trong lòng
Tới nơi thăm hỏi lão ông
Biết ra người chết là con trai đầu.
"Sao không thấy cụ buồn rầu
Chẳng hề đau xót! Nỡ đâu lạnh lùng!"
Khách xa thắc mắc hỏi cùng,
Ôn tồn khách được lão ông trả lời:
"Đã sinh ra ở trên đời
Sống rồi lại chết. Ai người thoát đây?
Hãy gieo nhân tốt kiếp này
Trái lành, quả ngọt hái đầy kiếp sau
Ích chi phiền não thương đau?"
Lão ông nhắn khách nếu vào thành trong
Vui lòng ghé đến nhà ông
Nhắn tin bà lão rằng con chết rồi:
"Cơm trưa mang một phần thôi
Phần kia để lại cho người nhà ăn!"
Khách ra đi, nghĩ băn khoăn:
"Mạng con sao chẳng quý bằng cơm canh!"
Khách lòng buồn bã vào thành
Theo lời chỉ dẫn tìm nhanh đến nhà.
*
Nhắn tin con chết cho bà
Bà nghe, khuôn mặt thoáng qua chút buồn
Rồi bình thản nói: "Cám ơn!"
Khách nghe sửng sốt hỏi luôn lão bà:
"Tại sao bà chẳng xót xa?"
Ôn tồn bà nói: "Mẹ cha khác nào
Chủ nhà trọ, đón khách vào
Khách là con cái, chiều nào dừng chân
Qua đêm ngủ đỡ nhọc nhằn
Để rồi mai sáng gói khăn lên đường
Chủ nhà trọ dù nhớ thương
Chẳng nên cứ mãi vấn vương muộn sầu
Chính do nghiệp báo từ lâu
Mà con cái thác sinh vào mẹ cha
Đến khi mãn nghiệp lại ra
Chết rồi ích lợi chi mà khóc thương!"
Vừa khi chị gái ngoài vườn
Vào nghe tin dữ, chỉ vương nét buồn
Nói rằng: "Sống chết lẽ thường
Khi không còn sống, xót thương ích gì!
Chị em nào có khác chi
Những cây gỗ ở rừng kia đóng bè
Thả vào dòng nước xuôi đi
Sông hồ phẳng lặng bè thì êm trôi
Nếu mà bão táp tơi bời
Vỡ bè, cây ghép tức thời lìa tan
Cuốn theo sóng nước thênh thang
Mỗi người mỗi ngả kết đoàn nữa đâu!
Nhân duyên kiếp trước hợp nhau
Kiếp này chung cửa sinh vào mà thôi!
Con người tuổi thọ ngắn dài
Tùy theo nghiệp báo. Chớ hoài khổ đau!"
Vợ chàng trai phía bếp sau
Chạy lên rõ chuyện, cúi đầu khẽ than:
"Chồng tôi thôi đã lìa trần!"
Thế rồi chẳng thấy nằm lăn khóc gào
Khách kinh ngạc biết là bao
Hỏi thăm sao vợ nỡ nào thờ ơ.
"Chồng tôi đã chết" vợ thưa
"Dù cho gào khóc cũng thừa mà thôi
Vợ chồng đạo nghĩa ở đời
Khác chi một cặp chim ngoài rừng xanh
Đêm về cùng ngủ một cành
Sáng ra tung cánh bay quanh kiếm mồi
Có duyên trở lại cặp đôi
Chẳng may gặp nạn tách rời còn đâu!
Vợ chồng số mạng khác nhau
Cớ sao mua thảm chuốc sầu thân ta!"
Khách nghe xong lặng người ra
Tiếc công lặn lội tìm qua xứ này
Nhân tình thế thái buồn thay
Gia đình cái tốt cái hay chẳng còn,
Khách kia lòng dạ héo hon
Muốn quay về nước nhưng còn phân vân:
"Chỉ riêng gặp mấy nông dân
Mà ta phê phán có phần sai chăng?"
Đã qua đây hãy tìm thăm
Vào ra mắt Phật, điều hằng thiết tha.
Vườn Kỳ Viên cũng chẳng xa
Đường vào tịnh xá lá hoa phô đầy
Đón chào khách lạ ghé đây,
Khách vào lễ Phật, giãi bày tâm can
Buồn gia đình bác nông dân
Làm điều trái với thế nhân thường tình
Mỉm cười Phật dạy: "Chúng sinh
Mỗi khi mất mát người mình thương yêu
Thường hay than khóc đủ điều
Đó là 'nhân tính' nói theo tình đời
Nhưng về 'chân lý' cao vời
Có chi đáng trách nơi người nông dân
Gia đình này chẳng lỗi lầm
Họ hay rõ được 'sắc thân' vô thường
Dù cho có tiếc có thương
Làm sao nắm giữ. Vấn vương làm gì
Dù phàm hay thánh khác chi
Ai mà tránh khỏi chết đi một ngày
Cuộc đời sống chết kề ngay
Là hai đầu mối vần xoay chẳng ngừng
Tiếp nhau luân chuyển khôn cùng
Ai mà hiểu vậy đáng mừng lắm thay
Thế là giải thoát được ngay
Ảo tình dứt bỏ, thân này sống vui!
Khách nghe lời Phật dạy rồi
Đột nhiên tỉnh ngộ, quỳ nơi Phật đài
Xin làm đệ tử của ngài
Ở luôn học đạo cuộc đời thơm hương!
 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Thi hóa Truyện Cổ Phật Giáo)
 
_____________________________________________


youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2021(Xem: 5519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6918)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4303)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9136)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5460)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5083)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5680)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6172)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5181)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 4941)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]