Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 của Tiểu văn hóa hipster

03/01/202214:47(Xem: 5490)
Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 của Tiểu văn hóa hipster

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960
của Tiểu văn hóa hipster
(Echoes of Peace from the Hipster 50s and 60s)
 

Lần đầu tiên tôi được cảm giác "Hòa bình"*, như một câu khẩu hiệu nhóm nhạc, trở lại vào sau giữa thế kỷ 20 thập niên 1950 từ các nhạc sĩ be-bop trong làng nhạc jazz khu vực Toronto, Canada, những người đã quen với việc giao tiếp bằng biệt ngữ Tiểu văn hóa (Hipster) và được mã hóa. "Hòa bình" biểu thị việc cố gắng không trở nên nổi khùng trong thế giới điên cuồng thát loạn, tàn nhẫn, bất cần. Chúng tôi đang tổn thương tâm lý và chúng tôi cần được an ủi. 


Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 3
Hình 1:  Cộng đồng Yorkville của Toronto, Canada vào những thập niên 1960. Ảnh: activehistory.ca


"Hòa bình" biểu tượng của sự bình yên, nơi không có đổ máu, chiến tranh. Điều mà bất cứ nước nào, bất cứ ai trên toàn thế giới đều mong muốn nhưng không phải nơi nào cũng có được.


Đầu những thập niên 1950, khi rời xa một đối tác thân thiết, chúng âm thầm nói thầm thì "Hòa bình" và người bạn đồng hành của chúng tôi sẽ hiểu rồi đáp lại nhẹ nhàng trong một giai điệu "Hòa bình". Chúng tôi cùng nhau mong được yên tâm thay vì cảm thấy bị hoảng loạn, rắc rối, bị tra tấn, phát điên cuồng, thậm chí trở nên bất an về thể xác và tinh thần. 


Thời Kỳ Thế Hệ Beat (The Beat Generation – 1944-1962): Các tác giả của phong trào Beat, như một nhà tiên phong của thế hệ Beat, người bài trừ thánh tượng văn học Cư sĩ Jack Kerouac (1922-1969) và một nhà thơ Mỹ, một trong những thủ lĩnh của Thế hệ Beat của thập niên 1960 Allen Ginsberg (1922-1969), đều chống lại nền văn học truyền thống, trong văn chương, và chống lại các thể chế chính trị. Thời kỳ này xuất hiện những tác phẩm thú tội và tình dục đưa đến các thách thức pháp lý và tranh luận về sự kiểm duyệt tại Mỹ. 


Năm 1958, Cư sĩ Jack Kerouac (1922-1969) viết cuốn tiểu thuyết “Dharma Bums.” (佛法浪蕩漢), ông đã viết và ghi chú rất nhiều tài liệu Phật học để làm tài liệu dạy Phật Giáo cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về Đạo Phật. Như thể những pháp âm vi diệu của đạo Phật đã vang vọng thấu suốt thời đại, với mong muốn những người yêu chuộng "Hòa bình"của chúng ta thể hiện ý định hảo tâm, từ bi tâm, quan quan mà ban bè, người quen thân, thậm chí những người lạ không quen biết nên tận hưởng một trạng thái cân bằng, sức khỏe thể chất lẫn tinh thần và an lạc hạnh phúc. 

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 1

Hình 2: Cuốn tiểu thuyết "Dharma Bums". Ảnh:  pinterest.com


Chúng tôi cảm thấy rằng những bất kỳ lợi ích tương tự sẽ áp dụng cho tất cả đồng loại - những người có thể đã phải chịu đựng với cảm giác về Hội chứng “baby blues”, trong quá trình đấu tranh về mặt tinh thần - cả bên trong bản thân học và bên ngoài xã hội. Sau đó, như bây giờ, tình trạng tình trạng ốm yếu đó đã phổ biến hầu hết nhân loại, bao gồm cả nhiều người di cư, những người rời bỏ châu Âu đến Canada sau Đệ nhị Thế chiến và những người đang cố gắng hòa nhập nhưng vẫn cảm thấy xa lạ, như những người tha hương trong một thế giới xa lạ. 


Vào những ngày đó ở khu vực toronto, Canada rộng lớn hơn, bạn cùng lớp, bạn bè, người quen và tất cả những người khác, không phân biệt chủng tộc, hoặc nguồn gốc tôn giáo, được coi là một phần của những người dễ bị tổn thương, vô tội, trong giao tiếp loài người dễ gây tổn thương cho nhau và xứng đáng được tôn trọng lẫn nhau, tình yêu thương một cách chân thành và cởi mở với nhau.  Đây là một cảm xúc được định nghĩa một cách mơ hồ: một thứ bẩm sinh, không thể thốt ra lời, mệnh lệnh, rung động trái tim, giống như một giai điệu nhạc trong từ bi tâm, sáng tạo, đang điều chỉnh tâm trí trong chế độ dàn nhạc đầy đủ. Cách quan tâm đến mọi người xung quanh, điều này cho thấy 'đối xử phần đầu, phần giữa và phần cuối' đã nhấn mạnh đã chạm đến tận đáy lòng của mỗi chúng ta. 


Chúng ta đang dự tính cảm giác đau khổ của bản thân; toát lên, linh hoạt, bao dung và lan tỏa rộng rãi khắp nơi trên thế giới để đón nhận tất cả những người khác với tình cảm đồng loại, như những người anh chị em cùng chung một đại gia đình, cần phải che chở đùm bọc cho nhau. Chúc phúc cát tường cho tất cả họ có được cảm giác trong từng hơi thở, từng bước chân thanh thản hồn nhiên, an lạc hạnh phúc như con người lý tưởng mà bản thân mỗi người chúng ta đang cần. Quan tâm đến người khác mang lại cho chúng ta một cảm giác tuyệt vời bởi chúng ta đang khuếch trương cảm xúc tích cực và biểu hiện một cách từ bi tâm. 


Chúng ta cũng nhận thức được những mặt đối lập xã hội của chúng ta là những đối tác là những người đang sống và làm việc trong cuộc sống thế tục, họ có những hành vi trái ngược với chúng ta, thô bạo, ồn ào, tham lam, hung hăng, nhám nhúa, thờ ơ, tự cao tự đại, ích kỷ, thù hận và quá tệ, dường như họ không thể hiện rõ dấu hiệu bên ngoài của sự ấm áp bởi từ bi tâm và an lạc hạnh phúc. 


Ngày nay, khi tăng lượt hơn 5.000 người bạn và người theo dõi trên Facebook của mình, thật khó để nghe thấy bất kỳ dư âm hoài cổ, vang dội từ sau giữa thế kỷ 20 những thập niên 1960 của "hipster" tiểu văn hóa vọng lại xuyên suốt hành lang thời gian, điều này khiến tôi tự thắc mắc những thế hệ trẻ thanh thiếu niên ngày nay có thể đang nghĩ gì và cảm thấy thế nào. . . Tôi không thể hiệu được họ, nhưng tôi quan tâm đến họ một cách gián tiếp bởi vì triển vọng cho tương lai của họ, dường như không báo trước sự sáng láng bởi nhanh trí. 


Vì lý do này, tôi chúc phúc cát tường cho họ, cùng với các thệ hệ trên trước cha mẹ và ông bà của họ, vòng cung rộng lớn hơn của bạn bè và tất cả những người của nhân loại còn tại thế, thanh thản hồn nhiên, an lạc hạnh phúc, mãn nguyện, niềm vui thông cảm và bình yên nội tại.


Không còn có thể trải nghiệm cảm giác yên bình hoài cổ đó, những người thuộc thế hệ tôi từng cảm thấy vào sau giữa thế kỷ 20 những thập niên 1960 về sau, bởi vì các điều kiện của thế giới bên trong tinh thần thay đổi bởi mỗi cá nhân, rõ ràng đã phát triển, mặc dù nhiều người cao niên của chúng ta hẳn đã trở nên cân bằng hơn và trưởng thành hơn. 


Nhìn vào thế giới kinh tế tài chính ngày nay, quan sát khía cạnh hành vi của con người tham lam, hiếu chiến, bày mưu tính kế, thâm hiểm, tôi nhận thức được rằng các yếu tố kinh tế đương đại càng ngày trở nên bế tắc hơn, hạn hẹp hơn, hạn chế hơn bao giờ hết. Các điều kiện đang thay đổi nhanh chóng, khiến người tiêu dùng đương đại phải trải qua cảm giác lo lắng và căng thẳng nghiêm trọng ở cấp độ tâm lý trở nên trên cơ sở cá nhân nội tâm là sự nghi ngờ và rối loạn tâm thần, về cơ sở bên ngoài tập thể của chúng ta bởi sự bối rối về tinh thần trong môi trường tự nhiên đang chết dần chết mòn. 


Đồng thời 'nếu tất cả những điều nêu trên không phải là quá nhiều để phải giải quyết' chúng ta thấy mình bị buộc phải tồn tại một cách miễn cưỡng khi đối mặt với một thảm họa hạt nhân khủng khiếp đang chờ xử lý. Cảm thấy bị đe dọa và hoàn toàn không được bảo vệ, với những điềm báo đáng sợ, quá gần để không sợ hãi và ngày càng tiến gần hơn trên một chân trời đang tiến sâu bên trong. 


Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 2

Hình 3: Quán cà phê Riverboat ở Yorkville, Toronto, Canada. Ảnh: knowyourgrinder.com


Những ngày này, ở tuổi già của tôi, không thể nào lặp lại quá khứ do sự hao mòn của thời gian và cố gắng của điều kiện đã phát triển theo năm tháng. Bất chấp những linh cảm như thế, tôi vẫn hằng mong ước mình có thể chia sẻ cảm giác tương tự về tình cảm anh em/chị em ấm áp mà tôi cảm thấy đối với các nhạc sĩ be-bop trong làng nhạc jazz khu vực Toronto, Canada, đồng nghiệp của tôi trong những thập niên 1960.    


May mắn thay, một số người trong chúng ta sẽ dần dần tiếp tục khơi dậy nỗ lực tinh thần nghiêm túc để trau dồi sự phát triển nội tâm, để sự hiểu biết và sự biện biệt của chúng ta không chỉ trở nên rộng hơn và rõ ràng hơn, mà còn sâu sắc hơn, khôn ngoan hơn, dẫn đến đối với tình cảm nhân từ và về bản thân, đồng loại của chúng ta, với mong ước về một thế giới tươi đẹp hơn cho toàn thể nhân loại. 


Khi có thời gian và cơ hội để hiểu biết về thế giới rộng lớn hơn, chúng ta cũng sẽ trau dồi sự hiểu biết về từ bi tâm, những hoạt động trí óc, tâm trí của đồng loại, điều này cho phép chúng ta chạm sâu vào trong tâm khảm của cả những người bị xã hội tàn ác nhất, ngay cả những cá nhân bị hành hạ tồi tệ nhất trong xã hội. Chúng ta có thể hiểu những lỗ hỏng bên trong của họ và đã khiến họ bị tổn thất, ít nhất bề ngoài thật khó chịu, bởi những con tinh ranh quỷ quyệt, xấu xa gian ác, đáng sợ và đáng ghớm ghê như thế nào. 


Trước khi kết luận, tôi muốn nói thêm rằng tôi mong muốn lành mạnh rằng những đại gia tỷ phú và chủ nghĩa tập thể ích kỷ, những người đặt lợi nhuận cá nhân lên trên con người và tiếp tục vô cảm, vô tâm, tiếp tục phá hủy sự cân bằng bấp bênh của môi trường của chúng ta, cuối cùng sẽ không được phép phá hủy các hệ sinh thái quý giá, duy trì tất cả các cuộc sống. 


Tôi hy vọng rằng họ sẽ phát triển ý thức và kỷ luật tốt (hoặc sẽ bị buộc bởi sự quản lý tốt) để ngăn chặn quá trình dần dần diệt khuẩn của các hệ thống sinh học của chúng ta chỉ vì mục đích thỏa mãn lòng tham nhất thời của những người giàu có nhất thuộc thế hệ cũ lại 'trớ trêu thay nó cũng đang chết dần chết mòn. Nó đi ngược lại tự nhiên và lẽ thường khi cho phép các tỷ phú doanh nghiệp tiếp tục nắm giữ và thao túng các công cụ tài chính nguy hiểm, có khả năng gây tổn hại cho thiên nhiên. 


Khi chúng ta xem xét thiệt hại lâu dài, cái giá phải trả và sự mất mát, đe dọa thế hệ sau và con cái của họ trên các khía cạnh an ninh thể chất và tinh thần, chúng ta nhận thấy rằng họ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chịu đựng, với cường độ ngày càng tăng, miễn là tình trạng tiếp tục trở nên tồi tệ hơn, cho đến khi cuối cùng họ phải đối mặt với một kết cục trực diện, tất yếu không thể tránh khỏi sự đối đầu vào nhau, quyết liệt, xấu xa, nảy lửa, cuối cùng là nghiệp lực.


* Câu khẩu hiệu "Hòa bình", "Hãy làm tình, thay vì gây chiến" (tiếng Anh: Make love, not war) là khẩu hiệu chống chiến tranh thường liên quan phổ biến phong trào chống văn hóa thập niên 1960 ở Hoa Kỳ. Khẩu hiệu này ban đầu được sử dụng chủ yếu bởi những người chống chiến tranh Việt Nam nhưng đã được viện dẫn trong những ngữ cảnh chống chiến tranh khác kể từ đó. Phần "yêu thương" (make love) của khẩu hiệu thường để nói tới việc thực hành tự do yêu đương, một phong trào phát triển ở giới trẻ Mỹ không chấp nhận hôn nhân, coi đó gây ràng buộc về xã hội và tài chánh, một công cụ của những người ủng hộ chiến tranh và ưa chuộng nền văn hóa cổ truyền bảo thủ. Đây là một "hippie" văn hóa lối sống của thanh niên, phát sinh từ một phong trào tại Hoa Kỳ trong giữa những năm 1960 và sau đó lan rộng sang các nước khác trên thế giới đến muộn hơn một chút so với thế hệ của tôi.


Tác giả Prof. David Dale Holmes

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: 佛門網)


youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2020(Xem: 5615)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta. Bởi con người sống với vọng tâm nên tạo ra dòng lưu chuyển sinh tử khổ đau của chúng sinh hữu tình với những quả báo sai biệt. Tất cả đều có nguồn gốc từ nhân duyên vọng tâm thiện ác. Chân tâm không sinh diệt chính là dòng hoàn diệt, cho nên chấm dứt được khổ đau, sinh tử tạo thành quả báo cũng như các quốc độ thù thắng, vi diệu, bất khả tư nghì của các bậc hiền thánh. Như vậy, phàm phu là do sống với vọng tâm thiện ác vô thường, biến hoại, sinh diệt; còn những ai sống hay an trú trong chân tâm rỗng lặng không sinh diệt thì trở nên là những bậc hiền thánh. Điều này là một chân lý.
01/10/2020(Xem: 5040)
Theo nhiều cách, khi thực hành Phật giáo cho phép chúng ta nhìn thấy những phần tiềm ẩn của bản thân. Giống như một vận động viên thể hình uốn dẻo các cơ của mình trong gương, chúng ta quan sát thể chất và tinh thần của mình từ mọi góc độ, và ghi nhận những gì ở đó. Đôi khi chúng ta thích những gì chúng ta thấy. Và đôi khi chúng ta không thích. Tuy nhiên, chính trong những khoảnh khắc mà sự phản chiếu của chúng ta khiến chúng ta thu mình lại, chúng ta sẽ tìm thấy cơ hội để phát triển.
01/10/2020(Xem: 5090)
Mấy năm qua, tôi đã quyết định từ bỏ hầu hết tài sản thế gian của mình, và vui sống trong một trang trại. Có nhiều lý do giải thích tại sao tôi đưa ra quyết định này, từ trần tục đến tâm linh. Nhưng cải giải thích đơn giản nhất là nói rằng tôi muốn “Tự do”. Tôi cảm thấy bị vướng mắc trong một công việc của công ty không được như ý. Tôi xúc động trước sự tấn công dữ dội của các công ty phương tiện truyền thông liên tục nói với tôi rằng, tôi chỉ có một lần mua hạnh phúc. Và tôi khao khát có cơ hội thực hành Phật pháp trong hòa bình.
01/10/2020(Xem: 4991)
Hội đồng Lập pháp Sikkim đã thông qua dự luật ngày 21 tháng 9 năm 2020, để thành lập một ngôi trường Đại học Phật giáo ở bang đông bắc Ấn Độ. Được biết với tên gọi Đại học Phật giáo Khangchendzonga (KBU), cơ sở này sẽ trở thành trường Đại học tư thục Phật giáo đầu tiên tại Ấn Độ, và là trường Đại học đầu tiên tại Sikkim do người dân bản địa Sikkim sáng lập.
01/10/2020(Xem: 5373)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 5453)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5422)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4580)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5351)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5621)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]