Chúng con cung kính quỳ trước Phật đài, tán dương công đức bậc Thầy ba cõi, đảnh lễ hồng danh chư Phật ba đời, chí thành cầu xin sám hối tất cả tội lỗi, cố ý hay vô ý, đã tạo ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Chúng con nguyện: Chánh pháp được lan truyền khắp chốn; lời Phật được phổ biến muôn nơi; người người từ bỏ tham giận, si mê; tưới tẩm từ bi, hạnh phúc; làm lành lánh dữ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau; thế giới dứt nghiệp binh đao; muôn loài an vui giải thoát.
Lại nguyện: Đời đời kiếp kiếp thường làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, hộ trì Tam Bảo ở mãi thế gian, sống trọn đời trong an vui tự tại. Từ nay, sạch hết não phiền, thoát vòng mê muội. Nguyện cùng pháp giới chúng sanh đều chứng thành quả Phật.
(đứng lên chắp tay xướng lễ)
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, hiền thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ
Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn
Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật,
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí
Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ
Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(ngồi xuống khai chuông mõ trì tụng)
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Ngưỡng mong chư Phật phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát(3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(3 lần)
(đứng lên chắp tay xướng)
ĐẢNH LỄ SÁM HỐI
Đại từ đại bi thương xót chúng sanh
Đại hỷ đại xả cứu vớt muôn loài
Hào quang diệu tướng dùng tự trang nghiêm
Đệ tử hết lòng quy y đảnh lễ
Nhất tâm đảnh lễ: (mỗi câu 1 lạy)
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật.
Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư
Lưu Ly Quang Vương Phật.
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ
Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp.
Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất
Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên
Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly
Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà
Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma
Tổ Sư Khương Tăng Hội
Tổ Sư Trúc Lâm Đại Đầu Đà
Tổ Sư Pháp Loa
Tổ Sư Huyền Quang.
Liệt Vị Tổ Sư Qua Các Thời Đại Từ Tây
Trúc Đến Việt Nam.
Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn
Thiên Bồ Tát, Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam
Thánh Chúng Liệt Vị Thiện Thần.
(ngồi xuống tụng tiếp)
Chí tâm Sám Hối:
Từ vô thỉ đến nay muôn kiếp,
Quên bản tâm, bỏ mất đạo mầu.
Ba đường khổ ải sa vào,
Sáu căn lầm lạc nhân sâu bao đời.
Nay con nguyện làm vơi tội lỗi
Để tránh điều thống hối về sau,
Xét soi nhân quả đuôi đầu,
Chúng con xin nguyện trồng sâu căn lành.
SÁM HỐI NGHIỆP CỦA MẮT
Lầm hoa giả mà quên trăng thật,
Yêu ghét rồi xấu đẹp cạnh tranh,
Xa đường chánh kiến lầm mình,
Phân chia vàng đỏ, trắng xanh mê mờ.
Mắt nhìn lệch khác gì như quáng,
Gặp vẻ xinh duyên dáng trộm nhìn,
Chưa mù mà mắt không tinh,
Chẳng hay ‘mặt thật’ của mình ra sao.
Gặp kẻ giàu, tranh nhau nhướng mắt,
Thấy người nghèo muốn khuất cho xong,
Người dưng chết chóc ngoài lòng,
Bà con tạ thế, lệ dòng khóc than.
Đến Tam Bảo, Già-lam, chùa tháp,
Thấy tượng, kinh chẳng chút đoái hoài,
Tại Chùa lại đoái gái trai,
Mãi mê liếc mắt đưa mày sắc dâm.
Chẳng nể sợ Long Thần, Hộ Pháp,
Làm ố hoen cửa Phật trang nghiêm,
Tội này vô lượng vô biên,
Phát sinh từ cửa mắt nhìn mà ra.
Nghiệp ác này phải sa địa ngục,
Bao kiếp dài mới được làm người,
Làm người lại bị mắt đui,
Nếu không sám hối hẳn thời khó xong.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA TAI
Thích lời tà, ghét nghe chánh pháp,
Gốc ‘thật’ quên, mải miết theo ngoài,
Sáo đàn inh ỏi khoái tai,
Mõ chuông tu niệm tưởng loài ếch kêu.
Câu vè ví ham vui để dạ,
Lời kinh cùng tiếng kệ ngoài tai,
Lời dua nịnh lại vui vầy,
Những lời ‘ngọt mật’ khen hay mong cầu.
Nghe lời phải đã nào tin nhận,
Ba chén vào đôi bạn gái trai,
Châu đầu áp má kề tai,
Ba điều bốn chuyện dông dài tai quen.
Lời Thầy dạy chẳng thèm nghe tới,
Lời bạn hiền khuyên chói cả tai,
Hiếu trung lễ nghĩa gác ngoài,
Chạy theo tiếng ái, vui vầy giai nhân.
Lời kinh kệ chẳng màng, chẳng thích,
Tội như vầy chứa chất vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Hết đời, đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sinh tiếp,
Sinh làm người bị điếc hai tai,
Dốc lòng sám hối từ nay
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA MŨI
Về mùi lạ, mũi tham trăm thứ,
Chẳng kể gì hương tuệ sạch trong,
Thích tìm sạ ướp, lan xông,
Mùi hương giới định, mũi không biết gì.
Trước bàn Phật mỗi khi nhang đốt,
Khói quyện quanh phảng phất hương trầm;
Trộm hương phẩy khói hít thầm
Long Thần há nể, quỷ thần xem khinh.
Mùi son phấn hồng nhan luyến chặt,
Chẳng đoái hoài cây giác hoa tâm,
Chợ xa rồi lại bếp gần,
Của ngon vật lạ chẳng cần sạch dơ.
Chẳng kể chi mùi như thịt cá,
Tanh hôi dùng ráo trọi chẳng tha,
Đàm vàng nước mũi chảy ra,
Dơ thềm bẩn đất lê la say nằm.
Chốn cửa Phật phòng Tăng chẳng kể
Mùi nặc nồng hơi thở mà kinh,
Ngửi sen ý trộm khởi sinh,
Nghe mùi má phấn tư tình phát ra.
Nào hay đó đều là nghiệp mũi,
Những thứ này tội lỗi vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Chết rồi đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sanh tiếp,
Làm thân người bệnh nghiệp khổ thay,
Dốc lòng sám hối tiêu tai,
Nay con quỳ trước Phật đài ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA LƯỠI
Tham mọi vị mà mình ưa thích,
Chẳng kể gì xấu tốt, dở ngon,
Nếm vào thứ béo, thứ còm,
Sát sinh hại vật chỉ dồn nuôi thân.
Gà, vịt, cá, chim ... hầm cho kỹ,
Lại thêm vô ngũ vị tỏi hành
Kể gì mùi vị hôi tanh,
Miễn sao khoái khẩu là sinh lưỡi thèm.
Nay chưa đủ mai tìm ăn nữa,
Gặp phải kỳ đến bữa đàn chay,
Cầu Thần lễ Phật lời hay,
Cố để bụng đói qua ngày cho xong.
Thức ăn chay lỏng lòng lạt miệng,
Khi phải ăn, chẳng luyến, chẳng màng,
Như người bệnh phải vương mang
Ăn không ngon miệng, cốt dùng qua loa.
Thấy thịt cá lòng đà hoan hỷ,
Cơm rượu nồng bí tỉ, vui vầy,
Gặp khi cưới gả đêm ngày,
Cùng là rượu thịt ma chay tiệc tùng.
Rồi sát sinh mà dùng lấy thịt,
Khiến trùng trùng tội nghiệp manh nha,
Lại ba tấc lưỡi như là:
Dệt thêu, đâm thọc, ác tà, dối gian.
Vô lễ với họ hàng, Tam Bảo,
Mắng chửi người, ráo nạo mẹ cha,
Chê bai dè bỉu người ta,
Luận bàn kim cổ nào là khen chê.
Lỗi bản thân dấu che đây đó,
Khoe giàu sang; nghèo khó miệt khinh,
Tăng Ni xua đuổi, chẳng gần,
Kẻ ăn người ở, chửi inh cả ngày.
Lời dèm xỉa như bày thuốc độc,
Nịnh hót như cung bậc phím đàn,
Lấy điều sai quấy điểm trang,
Nói không thành có, oán than lạnh nồng.
Việc như vậy trùng trùng vô kể,
Như hà sa chẳng thể đếm cùng,
Chết sa địa ngục nấu nung,
Lưỡi môi cày xéo, nước đồng rót vô,
Quả báo ấy bao giờ mới hết,
Sanh làm người câm điếc suốt đời
Nay con quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA THÂN
Xét thân xác tinh cha, huyết mẹ,
Phối hợp nên nhờ thế mà thành,
Trăm hài năm tạng kết sinh,
Chấp cho là thật thân hình của ta.
Tự quên mất bỏ qua thân-pháp,
Rồi dâm tà, trộm cướp, sát sinh,
Khiến cho ba nghiệp hoành hành,
Để rồi quả báo quẩn quanh luân hồi.
Nghiệp sát sinh nơi người tàn ác,
Chẳng lòng từ, hạ sát sinh linh,
Đâu hay sinh vật với mình,
Vốn cùng một thể vốn sinh một nguồn.
Khi sát hại chẳng buồn thương tiếc,
Chỉ lợi mình mà giết chúng sinh,
Nào làm thuốc độc cho tinh,
Ngải bùa trù yểm gian manh rợn người.
Người còn hại, dễ thời thương vật,
Nào đốt rừng, săn thú, lấp khe,
Bẫy chim, lưới cá hội hè,
Niệm vừa dấy nghĩ thấy nghe vui làm.
Mỗi hành động đều mang tội lỗi,
Phải siêng năng sám hối, lìa xa,
Cho hay trộm cắp nghiệp tà,
Của người nhìn thấy đã là nổi tham.
Vướng lòng tham, việc làm chẳng ngại:
Móc túi người, cạy cửa cạy rương,
Đến nơi chùa tháp, thiền đường,
Lòng tham thấy của dễ thường bỏ qua.
Không chỉ cắp ngọc ngà châu báu,
Mới tạo thành tội báo nghiệp sinh.
Cho dù cọng cỏ cây kim,
Không cho mà lấy đều sinh nghiệp này.
Mê nhan sắc, tơ lòng bủa khắp,
Thích phấn son mắt đắm ái tình.
Quên đi hai chữ liêm trinh,
Chỉ vì tham dục, ngục hình khổ đau.
Lòng chung thủy bắt đầu vơi cạn,
Lén tư tình, đụng chạm gái trai.
Nắm tay âu yếm kề vai,
Trèo tường khoét ngạch chỉ vì nghiệp dâm.
Tội lỗi ấy vô phương kể xiết,
Địa ngục sa, muôn kiếp chẳng xong,
Bao đời tội báo không cùng,
Gái nằm giường sắt, cột đồng trai ôm.
SÁM HỐI TỘI CỦA Ý
Dòng suy nghĩ quẩn quanh không dứt,
Chấp tướng nên dính mắc tình trần,
Như tầm nhả kết tơ giăng,
Kết thành cái kén giam thân của mình.
Như ‘thiêu thân’ tự tìm vào lửa,
Khiến lửa hồng thiêu hủy xác thân,
U mê chưa tỉnh tâm thần,
Đảo điên vọng tưởng mê lầm mà ra.
Các nghiệp ấy chẳng qua ba độc,
Đó chính là tham dục, sân si,
Mưu thần chước quỷ chi chi,
Tham bòn vơ vét từng ly từng đồng.
Một lời mười vẫn còn tham lấy,
Lòng như thùng không đáy đâu hay,
Bao giờ rót được cho đầy,
Rừng vàng biển bạc keo thì vẫn keo.
Dù có thấy kẻ nghèo đói khát,
Cũng không cho một cắc một đồng,
Gạo hư tiền mục mặc lòng,
Vốn người bủn xỉn chẳng dùng cho ai.
Đói khổ mặc, chẳng hoài giúp đỡ,
Mất một đồng một chữ đã to,
Tiền trăm vào túi mặc dù,
Vẫn cho là ít bo bo chẳng dùng.
Chẳng cho ai một đồng một chữ,
Dẫu của tiền tích trữ đầy kho,
Ngày thì tính toán, đêm lo,
Lao tâm khổ trí vốn do nghiệp này.
Do nền tảng tham sân làm gốc,
Lửa giận hờn cao ngất tự thiêu,
Trợn tròng quắc mắt to điều,
Làm cho hòa khí tan theo lửa này.
Không riêng chỉ người đời kẻ tục,
Cả Tăng Ni lắm lúc vẫn còn,
Biện tranh kinh luận thua hơn,
Giận chê Sư trưởng, trách hờn mẹ cha.
Như cành úa cỏ khô vẫn thấy,
Hẳn có hồi lửa cháy tan thôi,
Nói ra chết vật hại người,
Từ bi không nghĩ, xa rời giới răn.
Mở miệng thì nói thần nói thánh,
Gặp chuyện thì khó tránh ngu si.
Cửa ‘không’ dù ở bao thì,
Vẫn còn chấp mắt, chỉ vì ‘cái ta’.
Như cây vốn sinh ra gốc lửa,
Lửa lại làm thiêu hủy cả cây.
Những điều tội nghiệp trên đây,
Đều do nóng giận nghiệp nầy mà ra.
Bởi căn tánh đọa sa mê muội,
Ý thức thành tăm tối, chẳng ngay,
Dữ lành trên dưới nào hay,
Giết người hại vật, chặt cây tan tành.
Mắng hiền thánh, rẻ khinh đức Phật,
Ngược nghĩa tình quên đức, quên ân,
Đã không suy xét xa gần,
Ngu si mê muội làm nhân đọa đầy.
Nghiệp báo ác đã gây rất nặng,
Đến cuối đời, dứt mạng ra đi,
Rơi vào địa ngục A-tỳ,
Trải muôn ngàn kiếp dễ gì đầu thai.
Khi tái sanh ngu si mê muội,
Nếu không lo sám hối tiêu trừ,
Khó mà dứt nghiệp si ngu,
Trăm ngàn vạn kiếp như mù, khó thông.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
Con đã gây ra bao lầm lỡ,
Khi nói, khi làm, khi tư duy,
Đam mê, hờn giận và ngu si,
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri.
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm,
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát(3 lần)
KINH TINH YẾU
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát Quán-Tự-Tại,
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát-nhã-ba-la-mật,
Tức diệu pháp trí độ
Bỗng soi thấy năm uẩn,
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá-Lợi-Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không,
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia,
Cũng đều như vậy cả.
Xá-Lợi-Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt,
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt,
Cho nên trong tánh Không
Không có sắc, thọ, tưởng,
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý sáu căn
Không có sắc, thanh, hương.
Vị, xúc, pháp sáu trần
Không có mười tám giới,
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh,
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử,
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc.
Khi một vị Bồ-tát
Nương diệu pháp Trí Độ,
Bát nhã ba la mật
Thì tâm không chướng ngại,
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi,
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo,
Đạt Niết bàn tuyệt đối.
Chư Phật trong ba đời,
Y diệu pháp trí độ
Bát nhã ba la mật,
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng,
Bát-nhã-ba-la-mật
Là linh chú đại thần,
Là linh chú đại minh
La linh chú vô thượng.
Là linh chú siêu tuyệt
Là chân lý bất vọng,
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn,
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ,
Bát-nhã-ba-la-mật
Nói xong Đức Bồ Tát,
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha. (3 lần)
THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế,
ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn
lăng càn đế ta bà ha. (3 lần)
KỆ HỘ PHÁP
Trời, A-tu-la và Dược-xoa
Đến đây nghe Pháp hãy hết lòng
Ủng hộ đạo Phật cho bền lâu
Tất cả làm theo lời Phật dạy
Những ai đã đến đây nghe Pháp
Hoặc ở dưới đất hoặc trên không
Hãy nhìn mọi loài bằng mắt thương
Ngày đêm an trú trong chánh pháp.
Nguyện cho thế giới thường an ổn
Thấm nhuần phước trí và từ bi
Tất cả tội chướng đều tiêu trừ
Lìa xa khổ não thường an lạc
Đại chúng nhất tâm trì giới luật
Công phu thiền định phải tinh chuyên
Đóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm
Khắp nơi mọi miền đều hạnh phúc.
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức khó nghĩ lường
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Đều được vãng sanh về Cực lạc
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não
Nguyện chơn trí tuệ thường sáng tỏ
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ
Kiếp kiếp thường tu Bồ Tát đạo
Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh
Bất thối Bồ Tát là bạn lành
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Đệ tử chúng con một dạ chí thành đảnh lễ hồng danh chư Phật, sám hối công đức chuyên vì kỳ nguyện, Tam Bảo gia hộ đệ tử chúng con đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn. Cửu huyền thất tổ, nội ngoại tiên linh, đều được nghe kinh, vãng sinh Tịnh Độ. Khắp nguyện: Thuyền Từ phổ độ, cảm ứng vô biên, đồng hóa hữu duyên, đồng thành Phật đạo.
Đồng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật.
TỰ QUY Y
- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.
Lời mở đầu của người chuyển ngữ
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
Phần này bàn về cách dùng đặc biệt "vợ lẻ" từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Cụm danh từ này - cũng như một nhóm từ vựng liên hệ như vợ chính, chính thê, vợ cả, vợ lớn, thiếp, vợ bé, vợ mọn - vợ nhỏ phản ánh truyền thống đa thê của các nước Á Châu từ xa xưa. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Không phải ngẫu nhiên mà các giáo sĩ đều ghi nhận quan sát cá nhân và nhận xét của mình về truyền thống này khi sang Á Đông,
Lời mở đầu của người chuyển ngữ
Chúng ta có thói quen nhìn vào Phật giáo xuyên qua các phương tiện thiện xảo cùng các ảnh hưởng văn hóa, phong tục, và cả các phương pháp tu tập đại chúng của Trung quốc, thế nhưng dường như chúng ta không mấy khi ý thức được đúng mức về điều đó. Chúng ta cứ nghĩ rằng Phật giáo là như vậy. Thế nhưng Giáo huấn của Đức Phật sau khi được đưa vào Trung quốc qua các con đường tơ lụa, đã bị biến đổi rất nhiều qua hàng ngàn năm thích ứng với nền văn minh của đế quốc này, một nền văn minh hoàn toàn khác biệt với nền văn minh trong thung lũng sông Hằng, nhất là trên phương diện tư tưởng, ngôn ngữ và chữ viết.
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm.
Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự .
Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
Lời mở đầu của người chuyển ngữ
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn
VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI.
Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.