Chúng con cung kính quỳ trước Phật đài, tán dương công đức bậc Thầy ba cõi, đảnh lễ hồng danh chư Phật ba đời, chí thành cầu xin sám hối tất cả tội lỗi, cố ý hay vô ý, đã tạo ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Chúng con nguyện: Chánh pháp được lan truyền khắp chốn; lời Phật được phổ biến muôn nơi; người người từ bỏ tham giận, si mê; tưới tẩm từ bi, hạnh phúc; làm lành lánh dữ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau; thế giới dứt nghiệp binh đao; muôn loài an vui giải thoát.
Lại nguyện: Đời đời kiếp kiếp thường làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, hộ trì Tam Bảo ở mãi thế gian, sống trọn đời trong an vui tự tại. Từ nay, sạch hết não phiền, thoát vòng mê muội. Nguyện cùng pháp giới chúng sanh đều chứng thành quả Phật.
(đứng lên chắp tay xướng lễ)
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, hiền thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ
Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn
Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật,
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí
Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ
Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(ngồi xuống khai chuông mõ trì tụng)
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Ngưỡng mong chư Phật phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát(3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(3 lần)
(đứng lên chắp tay xướng)
ĐẢNH LỄ SÁM HỐI
Đại từ đại bi thương xót chúng sanh
Đại hỷ đại xả cứu vớt muôn loài
Hào quang diệu tướng dùng tự trang nghiêm
Đệ tử hết lòng quy y đảnh lễ
Nhất tâm đảnh lễ: (mỗi câu 1 lạy)
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật.
Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư
Lưu Ly Quang Vương Phật.
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ
Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp.
Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất
Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên
Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly
Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà
Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma
Tổ Sư Khương Tăng Hội
Tổ Sư Trúc Lâm Đại Đầu Đà
Tổ Sư Pháp Loa
Tổ Sư Huyền Quang.
Liệt Vị Tổ Sư Qua Các Thời Đại Từ Tây
Trúc Đến Việt Nam.
Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn
Thiên Bồ Tát, Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam
Thánh Chúng Liệt Vị Thiện Thần.
(ngồi xuống tụng tiếp)
Chí tâm Sám Hối:
Từ vô thỉ đến nay muôn kiếp,
Quên bản tâm, bỏ mất đạo mầu.
Ba đường khổ ải sa vào,
Sáu căn lầm lạc nhân sâu bao đời.
Nay con nguyện làm vơi tội lỗi
Để tránh điều thống hối về sau,
Xét soi nhân quả đuôi đầu,
Chúng con xin nguyện trồng sâu căn lành.
SÁM HỐI NGHIỆP CỦA MẮT
Lầm hoa giả mà quên trăng thật,
Yêu ghét rồi xấu đẹp cạnh tranh,
Xa đường chánh kiến lầm mình,
Phân chia vàng đỏ, trắng xanh mê mờ.
Mắt nhìn lệch khác gì như quáng,
Gặp vẻ xinh duyên dáng trộm nhìn,
Chưa mù mà mắt không tinh,
Chẳng hay ‘mặt thật’ của mình ra sao.
Gặp kẻ giàu, tranh nhau nhướng mắt,
Thấy người nghèo muốn khuất cho xong,
Người dưng chết chóc ngoài lòng,
Bà con tạ thế, lệ dòng khóc than.
Đến Tam Bảo, Già-lam, chùa tháp,
Thấy tượng, kinh chẳng chút đoái hoài,
Tại Chùa lại đoái gái trai,
Mãi mê liếc mắt đưa mày sắc dâm.
Chẳng nể sợ Long Thần, Hộ Pháp,
Làm ố hoen cửa Phật trang nghiêm,
Tội này vô lượng vô biên,
Phát sinh từ cửa mắt nhìn mà ra.
Nghiệp ác này phải sa địa ngục,
Bao kiếp dài mới được làm người,
Làm người lại bị mắt đui,
Nếu không sám hối hẳn thời khó xong.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA TAI
Thích lời tà, ghét nghe chánh pháp,
Gốc ‘thật’ quên, mải miết theo ngoài,
Sáo đàn inh ỏi khoái tai,
Mõ chuông tu niệm tưởng loài ếch kêu.
Câu vè ví ham vui để dạ,
Lời kinh cùng tiếng kệ ngoài tai,
Lời dua nịnh lại vui vầy,
Những lời ‘ngọt mật’ khen hay mong cầu.
Nghe lời phải đã nào tin nhận,
Ba chén vào đôi bạn gái trai,
Châu đầu áp má kề tai,
Ba điều bốn chuyện dông dài tai quen.
Lời Thầy dạy chẳng thèm nghe tới,
Lời bạn hiền khuyên chói cả tai,
Hiếu trung lễ nghĩa gác ngoài,
Chạy theo tiếng ái, vui vầy giai nhân.
Lời kinh kệ chẳng màng, chẳng thích,
Tội như vầy chứa chất vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Hết đời, đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sinh tiếp,
Sinh làm người bị điếc hai tai,
Dốc lòng sám hối từ nay
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA MŨI
Về mùi lạ, mũi tham trăm thứ,
Chẳng kể gì hương tuệ sạch trong,
Thích tìm sạ ướp, lan xông,
Mùi hương giới định, mũi không biết gì.
Trước bàn Phật mỗi khi nhang đốt,
Khói quyện quanh phảng phất hương trầm;
Trộm hương phẩy khói hít thầm
Long Thần há nể, quỷ thần xem khinh.
Mùi son phấn hồng nhan luyến chặt,
Chẳng đoái hoài cây giác hoa tâm,
Chợ xa rồi lại bếp gần,
Của ngon vật lạ chẳng cần sạch dơ.
Chẳng kể chi mùi như thịt cá,
Tanh hôi dùng ráo trọi chẳng tha,
Đàm vàng nước mũi chảy ra,
Dơ thềm bẩn đất lê la say nằm.
Chốn cửa Phật phòng Tăng chẳng kể
Mùi nặc nồng hơi thở mà kinh,
Ngửi sen ý trộm khởi sinh,
Nghe mùi má phấn tư tình phát ra.
Nào hay đó đều là nghiệp mũi,
Những thứ này tội lỗi vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Chết rồi đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sanh tiếp,
Làm thân người bệnh nghiệp khổ thay,
Dốc lòng sám hối tiêu tai,
Nay con quỳ trước Phật đài ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA LƯỠI
Tham mọi vị mà mình ưa thích,
Chẳng kể gì xấu tốt, dở ngon,
Nếm vào thứ béo, thứ còm,
Sát sinh hại vật chỉ dồn nuôi thân.
Gà, vịt, cá, chim ... hầm cho kỹ,
Lại thêm vô ngũ vị tỏi hành
Kể gì mùi vị hôi tanh,
Miễn sao khoái khẩu là sinh lưỡi thèm.
Nay chưa đủ mai tìm ăn nữa,
Gặp phải kỳ đến bữa đàn chay,
Cầu Thần lễ Phật lời hay,
Cố để bụng đói qua ngày cho xong.
Thức ăn chay lỏng lòng lạt miệng,
Khi phải ăn, chẳng luyến, chẳng màng,
Như người bệnh phải vương mang
Ăn không ngon miệng, cốt dùng qua loa.
Thấy thịt cá lòng đà hoan hỷ,
Cơm rượu nồng bí tỉ, vui vầy,
Gặp khi cưới gả đêm ngày,
Cùng là rượu thịt ma chay tiệc tùng.
Rồi sát sinh mà dùng lấy thịt,
Khiến trùng trùng tội nghiệp manh nha,
Lại ba tấc lưỡi như là:
Dệt thêu, đâm thọc, ác tà, dối gian.
Vô lễ với họ hàng, Tam Bảo,
Mắng chửi người, ráo nạo mẹ cha,
Chê bai dè bỉu người ta,
Luận bàn kim cổ nào là khen chê.
Lỗi bản thân dấu che đây đó,
Khoe giàu sang; nghèo khó miệt khinh,
Tăng Ni xua đuổi, chẳng gần,
Kẻ ăn người ở, chửi inh cả ngày.
Lời dèm xỉa như bày thuốc độc,
Nịnh hót như cung bậc phím đàn,
Lấy điều sai quấy điểm trang,
Nói không thành có, oán than lạnh nồng.
Việc như vậy trùng trùng vô kể,
Như hà sa chẳng thể đếm cùng,
Chết sa địa ngục nấu nung,
Lưỡi môi cày xéo, nước đồng rót vô,
Quả báo ấy bao giờ mới hết,
Sanh làm người câm điếc suốt đời
Nay con quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA THÂN
Xét thân xác tinh cha, huyết mẹ,
Phối hợp nên nhờ thế mà thành,
Trăm hài năm tạng kết sinh,
Chấp cho là thật thân hình của ta.
Tự quên mất bỏ qua thân-pháp,
Rồi dâm tà, trộm cướp, sát sinh,
Khiến cho ba nghiệp hoành hành,
Để rồi quả báo quẩn quanh luân hồi.
Nghiệp sát sinh nơi người tàn ác,
Chẳng lòng từ, hạ sát sinh linh,
Đâu hay sinh vật với mình,
Vốn cùng một thể vốn sinh một nguồn.
Khi sát hại chẳng buồn thương tiếc,
Chỉ lợi mình mà giết chúng sinh,
Nào làm thuốc độc cho tinh,
Ngải bùa trù yểm gian manh rợn người.
Người còn hại, dễ thời thương vật,
Nào đốt rừng, săn thú, lấp khe,
Bẫy chim, lưới cá hội hè,
Niệm vừa dấy nghĩ thấy nghe vui làm.
Mỗi hành động đều mang tội lỗi,
Phải siêng năng sám hối, lìa xa,
Cho hay trộm cắp nghiệp tà,
Của người nhìn thấy đã là nổi tham.
Vướng lòng tham, việc làm chẳng ngại:
Móc túi người, cạy cửa cạy rương,
Đến nơi chùa tháp, thiền đường,
Lòng tham thấy của dễ thường bỏ qua.
Không chỉ cắp ngọc ngà châu báu,
Mới tạo thành tội báo nghiệp sinh.
Cho dù cọng cỏ cây kim,
Không cho mà lấy đều sinh nghiệp này.
Mê nhan sắc, tơ lòng bủa khắp,
Thích phấn son mắt đắm ái tình.
Quên đi hai chữ liêm trinh,
Chỉ vì tham dục, ngục hình khổ đau.
Lòng chung thủy bắt đầu vơi cạn,
Lén tư tình, đụng chạm gái trai.
Nắm tay âu yếm kề vai,
Trèo tường khoét ngạch chỉ vì nghiệp dâm.
Tội lỗi ấy vô phương kể xiết,
Địa ngục sa, muôn kiếp chẳng xong,
Bao đời tội báo không cùng,
Gái nằm giường sắt, cột đồng trai ôm.
SÁM HỐI TỘI CỦA Ý
Dòng suy nghĩ quẩn quanh không dứt,
Chấp tướng nên dính mắc tình trần,
Như tầm nhả kết tơ giăng,
Kết thành cái kén giam thân của mình.
Như ‘thiêu thân’ tự tìm vào lửa,
Khiến lửa hồng thiêu hủy xác thân,
U mê chưa tỉnh tâm thần,
Đảo điên vọng tưởng mê lầm mà ra.
Các nghiệp ấy chẳng qua ba độc,
Đó chính là tham dục, sân si,
Mưu thần chước quỷ chi chi,
Tham bòn vơ vét từng ly từng đồng.
Một lời mười vẫn còn tham lấy,
Lòng như thùng không đáy đâu hay,
Bao giờ rót được cho đầy,
Rừng vàng biển bạc keo thì vẫn keo.
Dù có thấy kẻ nghèo đói khát,
Cũng không cho một cắc một đồng,
Gạo hư tiền mục mặc lòng,
Vốn người bủn xỉn chẳng dùng cho ai.
Đói khổ mặc, chẳng hoài giúp đỡ,
Mất một đồng một chữ đã to,
Tiền trăm vào túi mặc dù,
Vẫn cho là ít bo bo chẳng dùng.
Chẳng cho ai một đồng một chữ,
Dẫu của tiền tích trữ đầy kho,
Ngày thì tính toán, đêm lo,
Lao tâm khổ trí vốn do nghiệp này.
Do nền tảng tham sân làm gốc,
Lửa giận hờn cao ngất tự thiêu,
Trợn tròng quắc mắt to điều,
Làm cho hòa khí tan theo lửa này.
Không riêng chỉ người đời kẻ tục,
Cả Tăng Ni lắm lúc vẫn còn,
Biện tranh kinh luận thua hơn,
Giận chê Sư trưởng, trách hờn mẹ cha.
Như cành úa cỏ khô vẫn thấy,
Hẳn có hồi lửa cháy tan thôi,
Nói ra chết vật hại người,
Từ bi không nghĩ, xa rời giới răn.
Mở miệng thì nói thần nói thánh,
Gặp chuyện thì khó tránh ngu si.
Cửa ‘không’ dù ở bao thì,
Vẫn còn chấp mắt, chỉ vì ‘cái ta’.
Như cây vốn sinh ra gốc lửa,
Lửa lại làm thiêu hủy cả cây.
Những điều tội nghiệp trên đây,
Đều do nóng giận nghiệp nầy mà ra.
Bởi căn tánh đọa sa mê muội,
Ý thức thành tăm tối, chẳng ngay,
Dữ lành trên dưới nào hay,
Giết người hại vật, chặt cây tan tành.
Mắng hiền thánh, rẻ khinh đức Phật,
Ngược nghĩa tình quên đức, quên ân,
Đã không suy xét xa gần,
Ngu si mê muội làm nhân đọa đầy.
Nghiệp báo ác đã gây rất nặng,
Đến cuối đời, dứt mạng ra đi,
Rơi vào địa ngục A-tỳ,
Trải muôn ngàn kiếp dễ gì đầu thai.
Khi tái sanh ngu si mê muội,
Nếu không lo sám hối tiêu trừ,
Khó mà dứt nghiệp si ngu,
Trăm ngàn vạn kiếp như mù, khó thông.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
Con đã gây ra bao lầm lỡ,
Khi nói, khi làm, khi tư duy,
Đam mê, hờn giận và ngu si,
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri.
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm,
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát(3 lần)
KINH TINH YẾU
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát Quán-Tự-Tại,
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát-nhã-ba-la-mật,
Tức diệu pháp trí độ
Bỗng soi thấy năm uẩn,
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá-Lợi-Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không,
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia,
Cũng đều như vậy cả.
Xá-Lợi-Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt,
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt,
Cho nên trong tánh Không
Không có sắc, thọ, tưởng,
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý sáu căn
Không có sắc, thanh, hương.
Vị, xúc, pháp sáu trần
Không có mười tám giới,
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh,
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử,
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc.
Khi một vị Bồ-tát
Nương diệu pháp Trí Độ,
Bát nhã ba la mật
Thì tâm không chướng ngại,
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi,
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo,
Đạt Niết bàn tuyệt đối.
Chư Phật trong ba đời,
Y diệu pháp trí độ
Bát nhã ba la mật,
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng,
Bát-nhã-ba-la-mật
Là linh chú đại thần,
Là linh chú đại minh
La linh chú vô thượng.
Là linh chú siêu tuyệt
Là chân lý bất vọng,
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn,
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ,
Bát-nhã-ba-la-mật
Nói xong Đức Bồ Tát,
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha. (3 lần)
THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế,
ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn
lăng càn đế ta bà ha. (3 lần)
KỆ HỘ PHÁP
Trời, A-tu-la và Dược-xoa
Đến đây nghe Pháp hãy hết lòng
Ủng hộ đạo Phật cho bền lâu
Tất cả làm theo lời Phật dạy
Những ai đã đến đây nghe Pháp
Hoặc ở dưới đất hoặc trên không
Hãy nhìn mọi loài bằng mắt thương
Ngày đêm an trú trong chánh pháp.
Nguyện cho thế giới thường an ổn
Thấm nhuần phước trí và từ bi
Tất cả tội chướng đều tiêu trừ
Lìa xa khổ não thường an lạc
Đại chúng nhất tâm trì giới luật
Công phu thiền định phải tinh chuyên
Đóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm
Khắp nơi mọi miền đều hạnh phúc.
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức khó nghĩ lường
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Đều được vãng sanh về Cực lạc
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não
Nguyện chơn trí tuệ thường sáng tỏ
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ
Kiếp kiếp thường tu Bồ Tát đạo
Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh
Bất thối Bồ Tát là bạn lành
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Đệ tử chúng con một dạ chí thành đảnh lễ hồng danh chư Phật, sám hối công đức chuyên vì kỳ nguyện, Tam Bảo gia hộ đệ tử chúng con đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn. Cửu huyền thất tổ, nội ngoại tiên linh, đều được nghe kinh, vãng sinh Tịnh Độ. Khắp nguyện: Thuyền Từ phổ độ, cảm ứng vô biên, đồng hóa hữu duyên, đồng thành Phật đạo.
Đồng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật.
TỰ QUY Y
- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.
Dưới đây là bài phỏng vấn Giáo sư Trung Quốc Ji Zhe (汲 喆/Cấp Triết) về tình trạng Phật giáo ngày nay tại quê hương của ông. Bài phỏng vấn được đăng trên nhật báo "Le Monde" của Pháp ngày 9 tháng 9 vừa qua với tựa: "Đức Phật mặc áo màu đỏ" (Bouddha en habit rouge), và đồng thời cũng được đưa lên trang mạng của tờ báo này, nhưng lại mang tựa khác: "Tại Trung Quốc, chính quyền công cụ hóa Phật giáo đổi mới" (En Chine, le pouvoir instrumentalise le renouveau bouddhiste).
Trong các tổ chức, cộng đồng, quốc gia trên thế giới, nơi nào cũng có phép tắc luật lệ riêng mà thành viên thuộc các tổ chức đó hay người dân thuộc cộng đồng hay quốc gia đó bắt buộc phải tuân thủ. Mục đích của luật lệ là nhằm giữ cho cộng đồng có được trật tự, ngăn ngừa giảm thiểu những tai ương tội ác do kẻ xấu cố tình gây ra.
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo.
Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông.
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.