Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn, Đạo Lý hay Tiêu Cực ?

29/11/202107:02(Xem: 6514)
Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn, Đạo Lý hay Tiêu Cực ?

           

 tien hoc le dau hoc van

         


TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN

ĐẠO LÝ HAY TIÊU CỰC ?




 
Mấy hôm nay đọc báo trên các mạng lưới trực tuyến xã hội tiếng Việt, người Việt khắp nơi trong cũng như ngoài nước, được nghe một nguồn dư luận mới xôn xao về việc nên giữ hay bỏ một câu khẩu hiệu đã trở thành quá quen thuộc trong tất cả các hệ thống trường học Việt Nam từ xưa tới nay. Đó là câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” thường được dán ngay trên tường trước mặt học sinh trong lớp học. Vì đã quá quen thuộc và mặc nhiên được coi đây là một đạo lý đương nhiên kết hợp giữa tinh thần tôn sư trọng đạo và rèn luyện nhân cách nên qua nhiều thế hệ, câu khẩu hiệu này đã trở thành một lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà nghiêm cẩn chuyên chở   giá trị nhân văn đào tạo thế hệ trẻ. Đây không phải là một câu khẩu hiệu thời trang để trang trí lớp học mà là một châm ngôn rèn luyện nhân cách trong đời sống học trò. Bởi vậy, chẳng có thầy giáo hay học sinh nào còn bận tâm đặt câu hỏi là nên hay không nên treo câu khẩu hiệu mang nội dung “nguyên lý giáo dục” hay đạo lý trồng người nầy. (Chữ Lễ trong bài này xin được viết hoa khi nhấn mạnh đó là tiêu đề của toàn bài và viết thường khi hiểu theo nghĩa quy ước.)


Bối cảnh làm nền cho cuộc… đảo chánh khẩu hiệu nầy được giới truyền thông đưa tin như sau:

            Tại hội thảo Giáo dục Việt Nam chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21/11, GS Trần Ngọc Thêm trình bày quan điểm trên trong tham luận: “Xây dựng Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”.
GS Trần Ngọc Thêm kiến nghị: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”.
“Chừng nào còn đề cao chữ Lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển”, ông nhấn mạnh thêm.
            – Trước đó, năm 2016, tại hội thảo “Xây dựng môi trường văn hóa trường học” do Bộ GD-ĐT tổ chức, nhiều đại biểu cho rằng, hệ thống khẩu hiệu trường học đã đáp ứng đúng tôn chỉ mục đích. Tuy nhiên, việc treo khẩu hiệu còn bất cập, mỗi nơi làm một phách và chưa phù hợp nên kiến nghị xem lại khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở trường tiểu học.(Tin Mới)


            
Là một thầy giáo xuất thân được đào tạo dạy môn Việt Văn cấp 3 từ trường Văn Khoa và Sư Phạm Huế (1966-1970) nhưng vì hoàn cảnh và thời thế tôi phải dạy học tại nhiều trường, phụ trách các môn học khác nhau và phục vụ nhiều nơi với hoàn cảnh khác nhau như: Việt Nam trước và sau 1975, Phi Luật Tân, Mỹ. Mãi cho đến khi đứng trên bục giảng của nhà trường Mỹ, nhìn sinh viên vừa vào lớp miệng vừa bỏm bẻm nhai kẹo cao su hay ngồi gác chân lên ghế trong lớp, tôi mới nhận ra cái đạo lý lớp học phải như thế nào mới phải “đạo” bởi tôi vốn đã coi cái trật tự truyền thừa “tiên học lễ, hâu học văn” là nề nếp mặc nhiên trong văn hóa học đường Việt Nam.

            Truyền thống văn hóa và giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm và lâu đời về khái niệm chữ Lễ của văn hóa Trung Quốc. Trong Ngũ Kinh có Lễ Kinh và vai trò của Lễ được đức Khổng Tử xác định: “Không học Lễ thì không biết cách đi đứng ứng xử ở đời.” Và năm đức tính căn bản làm người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín thì Lễ đứng giữa để làm trung gian, bởi vì nhân không trí là tốt mã, thương hại; nghĩa không tín là tuỳ hứng, giang hồ. Cho nên khái niệm cổ điển về Lễ là sự phân định vai trò và cương lĩnh rõ ràng: Hai nước giữ lễ là không xâm hại nhau, hai nhà giữ lễ là không gây phiền oán cho nhau, hai người giữ lễ là tôn trọng lẫn nhau và thầy trò giữ lễ là làm tốt vị trí của mình. Lễ tự nguyên nghĩa là luân thường đạo lý, là trật tự xã hội, là tôn trọng lẫn nhau. Ý nghĩa của chữ Lễ trong quá trình truyền thừa và ứng dụng vào văn hóa giáo dục Việt Nam là tôn sư trọng đạo, học trò xem thầy như cha và thầy xem trò như đứa con tinh thần kế thừa và phát huy tâm nguyện cùng lý tưởng giúp đời và giữ đạo làm người nghiêm cẩn của mình để sống, ứng xử hay có khi chỉ trong mơ ước. Với một khái niệm về Lễ như thế thì bất cứ một nền giáo dục hay một xã hội nào đều ứng hợp với vai trò giáo dục là nhằm đào tạo thế hệ tương lai tài năng và đạo hạnh.

           

            Tuy nhiên, xã hội Việt Nam từ xưa đến nay đã vô tình hay cố ý diễn dịch ý nghĩa của nội hàm chữ Lễ một cách cực đoan và phiến diện trong nhiều trường hợp giáo dục bị biến thành phương tiện đầy khắt khe, áp bức để phục vụ cho tinh thần bảo thủ, quyền lực tôn giáo, giai cấp thống trị đè đầu cỡi cổ dân lành, hay thủ đoạn chính trị... Do đó, đã có nhiều trường hợp cái “Lễ” đã bị lạm dụng khi các thầy đồ, thầy giáo, cô giáo, cơ sở giáo dục… sử dụng hình thức “lễ trị” bằng roi vọt, bạo lực, uy quyền… để đánh đập, mạ lỵ, trừng phạt, vùi dập học sinh một cách thô bạo và… vô lễ! Và hệ quả đương nhiên, với phản ứng tâm lý và thể lý phản hồi có điều kiện, học sinh bị tha hóa vì sợ hãi, căm tức hay chán ngán môi trường học tập với thầy giáo đã hành hạ mình dẫn đến tình trạng cũng đành, thụ động và “thủ tiêu phản biện” như ý kiến của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp phổ biến mà chỉ là khía cạnh cực đoan trong truyền thống giáo dục Việt Nam. Riêng về mặt tâm lý tương tác với xã hội, một học sinh hay sinh viên thiếu khả năng phản biện không phải vì “giữ lễ” hay bị ép lễ mà thường là do thiếu thông tin, thiếu kiến thức và thiếu không khí hay môi trường thích hợp.

           

            Thật ra, câu “Tiên học lễ, hậu học văn” tuy là một câu văn Hán Việt nhưng thường được xem như đã trở thành thuần Việt vì văn phong nhẹ nhàng, ngữ điệu cân đối và nội dung rất dễ hiểu về tinh thần đạo lý và trật tự xã hội rất dễ ứng dụng cho mọi người thuộc mọi trình độ, kể cả hai thế hệ thầy và trò. Đã nhiều lần tôi vừa nhớ, vừa trân trọng cái câu khẩu hiệu đơn giản và nhỏ nhắn nhưng đầy ý nghĩa nầy khi bước vào dạy lớp học Mỹ chẳng thấy ai đứng dậy hay biểu hiện cử chỉ chào kính nào hoặc nhìn thái độ có vẻ thiếu cung kính khi hỏi hay phát biểu với thầy giáo. “Tiên không học lễ rồi chăng?” Tôi tự hỏi. Nhưng càng đi sâu vào khái niệm của “cái Lễ” tôi càng nhận thấy rõ ràng rằng, nội dung của Lễ nếu được hiểu theo một nghĩa tích cực hơn thì học trò, sinh viên Mỹ còn trọng Lễ hơn cả Việt Nam vì trong quá trình học tập rất ít nói dối, hiếm khi gian lận hay ích kỷ và thủ lợi như sinh viên của nhiều nước châu Á xem Lễ như một chiêu thức đóng kịch giả vờ làm vui lòng thầy giáo, miễn sao có lợi cho cá nhân mình.

 

            “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”! Đọc câu nầy của GS. Trần Ngọc Thêm, tôi thật tình chưa hiểu hết tôn ý của GS. Cái gọi là “tư duy phản biện” sao lại bị cột trói vào một trật tự tinh thần và phẩm chất đạo lý của một con đường khiêm cung, quang minh chính đạo như Lễ (lễ độ, lễ phép, lễ nghi, lễ giáo, lễ bái…). Muốn khai mở tư duy phản biện thì chỉ cần ba yếu tố chính là kiến thức vững vàng, phương pháp luận chặt chẽ và khung cảnh thích hợp. Cả một nền triết lý Đông phương, kiến thức khoa học kỹ thuật và phương tiện truyền thông hiện đại là cốt lõi của tư duy phản biện. Lễ không đóng vai trò chướng ngại hay tiêu cực nào cho mọi hình thức phản biện. Không có một thầy giáo nghiêm túc nào lại cấm đoán học sinh mình nêu ý kiến phản biện; nếu không muốn nói là còn hài lòng, ngầm sung sướng vì sự thông minh, lập luận rạch ròi của học sinh mình trong phản biện cả. Thêm nữa, khi nói đến cụm từ “giải phóng sức sáng tạo” thì phải tìm tới những trở ngại kìm hãm sức sáng tạo. Đó là do sự thiếu khả năng, thiếu nhân tài, thiếu điều kiện, thiếu hoàn cảnh… chứ hoàn toàn không do một hình thức “Lễ” nào tác động để làm mất đi khả năng sáng tạo cả. Muốn “giải phóng sức sáng tạo” thì phải cần quy tụ nhân tài, tôn trọng tự do, đánh giá công minh và đãi ngộ xứng đáng là bốn “tiêu chuẩn vàng” của tinh thần phát huy sáng tạo Đông cũng như Tây. “Lễ” chẳng đóng một vai trò nào mang tính quyết định chung cuộc trong sáng tạo nghệ thuật, khoa học và nhân văn cả. Do vậy, kiến nghị của GS về việc cần chấm dứt việc sử dụng một câu TÂM NGÔN hay ho như thế thì rất mong GS định tâm suy nghĩ và cân nhắc cẩn trọng hơn; cũng như cần uốn lưỡi nhiều lần trước khi phát biểu.

 

            Nhà trường Mỹ cũng có các câu khẩu hiệu được sử dụng luân lưu trong hệ thống trường học cả nước nhưng hẩu hiệu trong nhà trường Mỹ thường không nhắc nhở về phương thức và thái độ học tập mà nói về ý nghĩa và mục đích của quá trình học tập.  Sau đây là một dẫn chứng về 200 câu khẩu hiệu trong nhà trường Mỹ đủ các cấp học (https://sloganshub.org/school-slogans/). Có thể nói là gần như không có một câu nói lên một nhân vật thần thánh nào khác hơn là chính bản thân người học trò phải chủ động và chịu trách nhiệm cho hướng đi và mục đích mình vươn tới. Nếu có chăng một vài câu nói về “lễ” thì cũng đề ra phong cách ứng xử do chính bản thân người học trò chủ động như “Hãy kính trọng người khác để được người khác kính trọng” (Respect others and they’ll respect you). Trong lúc đó thì cách thủ lễ của Việt Nam ta là cần phải làm theo lời khuyên và đương nhiên chấp nhận giá trị của các bậc cao nhân tiền bối.

 

            Thử khách quan để đưa ra một vài nét so sánh về khái niệm, nội dung và tác dụng của cái “đức” và “lễ” theo hai khuynh hướng:

 

-          Việt Nam: Thầy giáo và xã hội chủ động dạy dỗ học trò và con em phải làm những điều hay lẽ phải đã được quy định.

-           Mỹ: Thầy giáo và xã hội chỉ đóng vai trò trình bày, giới thiệu hệ thống giá trị đạo lý để cho học trò và con em tự quyết định có nên áp dụng những nguyên tắc và giá trị đó cho mình hay không.

 

            Như thế, dẫu là trong bối cảnh văn hóa của Mỹ, Việt Nam hay bất cứ quốc gia, xã hội nào thì đức hạnh vẫn được bảo vệ và tôn trọng. Tiêu chí của hệ thống giá trị và đức hạnh tuy không giống nhau nhưng vẫn có điểm chung, đó là trật tự xã hội và cung cách đối tác hay ứng xử với nhau. Đó chính là cái Lễ đã trở thành cái biết, cái học đầu tiên cần phải có. Hình thức và phương tiện ứng dụng cái Lễ trong môi trường giáo dục cần phải có sự mềm dẽo, thích ứng tùy theo thời đại, văn hóa xã hội và đáp ứng được nhu cầu cụ thể.

 

            Kẻ đang viết những dòng nầy rất chia sẻ thiện ý và công tâm của GS. Trần Ngọc Thêm cũng như lời phản biện rất thuyết phục của PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT khi ông cho rằng: “… với mỗi một con người, ‘đức’ là cái gốc cơ bản . Ở đây có thể hiểu “lễ” tức là đức hạnh. Trong cuộc sống hay ở gia đình , cơ quan, nhà trường… đức rất quan trọng.”

 

            Nay giữa hai khuynh hướng trái chiều là nên bỏ hay nên giữ câu châm ngôn “Tiên học lễ, hậu học văn” trong môi trường giáo dục, tuy mới nghe qua thì đây chỉ mới là một hoặc vài ba ý kiến chống hay thuận theo quan điểm cá nhân; nhưng đứng trên bình diện giáo dục và luân lý đạo đức của một xã hội, một quốc gia thì đây cũng có thể coi như một bước đột phá của những nhà giáo, trí thức dân tộc trước những thách thức của thời đại mới. Sự xét lại để điều chỉnh cập nhật những giá trị tinh thần và đạo đức “xưa bày nay làm” trong nhiều lĩnh vực mà đặc biệt trong môi trường và nhu cầu cải cách giáo dục là những đóng góp cần thiết trước muôn vàn chướng ngại đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, việc kiến nghị hủy bỏ câu “Tiên học lễ, hậu học văn” thì hoàn toàn không nên thực hiện vì nó vừa thiếu cơ sở về đạo đức cũng như lý luận; vừa không thuyết phục trên căn bản nguyên lý giáo dục và đạo lý dân tộc.

 

            Trong mọi công cuộc cải cách và đổi mới cần xác định một cách khách quan và khoa học rằng, không hề có một nguyên nhân đơn lẻ nào có đủ tầm vóc quyết định huống hồ đây chỉ là một câu nói mang tính tục ngữ, châm ngôn lâu đời chứ không phải là khẩu hiệu nhất thời. Học lễ trước để chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng cho bước học văn tiếp theo là một trình tự diễn tiến rất “lôgich” không bao giờ lỗi thời hay phai cũ.

                             

                                                                                                                                                                                                            Sacramento Thanksgiving 2021
 Trần Kiêm Đoàn, Ph.D., MSW.

                                                                             





***

facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 9852)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8757)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 9150)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6858)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21779)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7687)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7344)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 14308)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 9205)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8477)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]