Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúc mừng Đại hội Hoằng Pháp

19/11/202116:37(Xem: 4918)
Chúc mừng Đại hội Hoằng Pháp



duc the ton 2a


Chúc mừng Đại hội Hoằng Pháp




Được tin quý Thầy Tuệ Sỹ, GS Trí Siêu Lê Mạnh Thát và nhiều vị tôn túc sẽ thực hiện một Đại Hội Hội Đồng Hoằng Pháp qua Zoom vào cuối tháng 11/2021, lòng con vui mừng xiết bao. Đó là những gì mà con, trong cương vị một người học Phật, đã chờ đợi từ lâu, từ rất lâu, từ nhiều thập niên, từ khi biết say mê tu học. Bản thân con không có học vị cao, duy chỉ nhiệt tâm ngày ngày tu học, tự biết rằng còn rất nhiều kinh luận cần phải đọc, cần phải học, cần phải nghiền ngẫm và cần phải chứng nghiệm, do vậy niềm vui này không thể nào kể xiết.

Nay xin làm câu đối ngợi ca hai vị Thầy chủ trì Đại Hội:

Tuệ Sỹ thắp hương giải thoát, vâng lời chư Phật,
đọc luận thánh tăng, ghi nguyên ngữ, dịch Kinh Đại Tạng

Trí Siêu xô cửa vô thường, thuận ý vua Trần,
dò trang cổ sử, ngộ bản tâm, hiển Pháp Vô Sanh.

Hiển nhiên là quý Thầy đã nghĩ nhiều, đã dịch nhiều và  đang định hướng hoàn tất Kinh Đại Tạng. Nơi đây, con xin góp vài ý nhỏ.

Trước tiên, xin dịch kho tàng Phật Học của tiền nhân. Việc này, đặc biệt là văn học Phật Giáo thời Lý Trần, phần lớn đã được dịch ra tiếng Việt thời nay, nhưng có thể vẫn còn nhiều bản văn chưa dịch ra. Quý Thầy  như Thanh Từ, Nhất Hạnh, Trí Siêu Lê Mạnh Thát… đã dịch ra phần lớn. Duy có điểm, một số bản văn nên dịch lại cho dễ hiểu hơn, vì nếu giới trẻ không hiểu tận tường, khi họ dịch sang tiếng Anh thế nào cũng sai.

 Thí dụ, để dẫn ra vài dòng đầu trong Hội Thứ Năm từ bài phú Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông.

Thầy Nhất Hạnh dịch là:

Vậy mới hay: Bụt ở cong nhà; chẳng phải tìm xa.
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt; đến cóc hay chỉn Bụt là ta.

Thầy Thanh Từ dịch là:

Vậy mới hay! Bụt ở cong nhà, Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt, Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát dịch là:

Vậy mới hay! Bụt ở cong nhà; Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bổn nên ta tìm bụt; Đến cốc hay chỉn bụt là ta.

Ngay cả khi có chú giải, có những chữ nên viết lại theo ngôn ngữ thời nay. Như các chữ “cong, khuây (khuấy), bản (bổn), cóc (cốc), chỉn.” Bởi vì, điều quan trọng là hoằng pháp, nên ưu tiên dịch làm sao cho tất cả các em học sinh lớp 10 hay lớp 11 đều có thể hiểu được. Bởi vì, đa số học sinh Việt Nam học xong lớp 12 là nghỉ học. Do vậy, nên tính trình độ chung Phật Tử là lớp 12. Đó là lý do hầu hết các bản văn đều nên viết sao cho đa số hiểu được. Dĩ nhiên, trừ các luận thư quá phức tạp, không thể nào viết cho dễ hiểu; như về Trung Luận, hay Duy Thức. Nhưng những gì từ cội nguồn Việt Nam đều nên làm cho dễ hiểu, và như thế mới tu học được.

Thứ nhì, cần nhiều bản dịch khác nhau. Xin các dịch giả đừng ngại khi đã thấy có nhiều bản dịch của các bậc tiền bối, vì nếu thấy cần, hãy dịch thêm bản mới. Bởi vì, mỗi dịch giả đều chiếu rọi một cách hiểu riêng. Đó là lý do, chúng ta thấy Tạng Pali dịch sang tiếng Anh đầy đủ đã có nhiều dịch giả: Ajahn Thanissaro, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato. Còn dịch từng phần thì thêm rất nhiều dịch giả khác, như Bhikkhu Analayo, Bhikkhu Ñāṇamoli, Maurice O’C. Walshe, KR Norman, John D. Ireland, Anandajoti Bhikkhu, Khantipalo Mills… Nghĩa là, mặc dù đã có một số vị dịch rồi, một số vị khác đã dịch lại, theo nhận biết riêng. Đó là lý do Kinh Pháp Cú (Dhammapada) của Tạng Pali đã được dịch ra tiếng Anh có lẽ hơn 25 bản dịch khác nhau.

Cũng y hệt như bài phú Cư Trần Lạc Đạo dẫn trên, cho thấy đã có ba vị thầy (Thanh Từ, Nhất Hạnh, Lê Mạnh Thát) dịch. Không nên nói rằng người đi trước dịch sai, chỉ nên nói là người sau muốn làm sáng tỏ hơn. Thêm nữa, trong khi quý Thầy dịch lại, các dòng chú giải hiển nhiên sẽ giúp độc giả biết cách tu, biết cách an tâm, biết cách xa lìa tham sân si.

Như trường hợp Ngài Sujato, giải thích trong bài viết nhan đề “Notes on the translation of Sutta Nipāta” (Ghi Chú về Bản Dịch Kinh Tập) về lý do tại sao ngài dịch Kinh Tập, dù là đã có trước mặt Thầy là các bản Anh dịch của Lawrence Khantipalo Mills (mà Sujato giúp biên tập bổ túc, sau khi Khantipalo từ trần), KR Norman, Bhikkhu Bodhi, E.M. Hare, Ven Saddhatissa, Ven Thanissaro. Đó là chưa kể khoảng 10 bản Anh dịch khác mà Ngài Sujato không có trước mặt — thí dụ như các bản Anh dịch Kinh Tập của Andrew Olendzki, Ajahn Buddhadāsa, John D. Ireland, Piyadassi Thera, Nyanaponika Thera, Narada Thera… và một số dịch giả khác chỉ dịch một phần Kinh Tập như Gil Fronsdal, Leigh Brasington…

Tại sao phải dịch Kinh Tập, trong khi đã có nhiều bản Anh dịch? Mỗi dịch giả đều có lý do riêng. Nơi đây, chúng ta không tiện phân tích hay suy đoán, cũng không ghi lại đầy đủ lý do Ngài Sujato muốn dịch lại. Có một điều hiển nhiên: mỗi dịch giả hiểu ý Đức Phật theo cách riêng. Ngài Sujato có nói một điểm, thí dụ Kinh Tê Giác Một Sừng (Rhinceros Sutta, Snp 1.3) trong khi Ngài Norman dịch “Buông bỏ bạo lực…” (Laying down violence…) thì Ngài Bodhi dịch là “Đã buông gậy xuống…” (Having put down the rod…). Về văn phạm, thì Ngài Norman dùng thì hiện tại (laying => present), trong khi  Ngài Bodhi dùng thì hiện tại phân từ (Having put => present participle). Chỉ thí dụ một điểm nhỏ thôi. Không ai sai hết, chỉ nên nói mỗi người hiểu ý Phật hơi khác nhau.

Chỗ này có thể ghi chú thêm, rằng Kinh Tập tuy không được nhiều tăng ni Việt Nam chú ý, nhưng lại được nhiều vị thầy quốc tế chú trọng. Bởi vì trong Kinh Tập, hai phẩm cuối, mỗi phẩm gồm 16 câu hỏi đáp, được Đức Phật cho các nhà sư đọc tụng hàng ngày như Kinh Nhật Tụng trong các năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Trong đó, Đức Phật chưa dùng những chữ bây giờ chúng ta quen thuộc. Không dùng chữ “Niết Bàn” thay vào đó là các chữ “giải thoát” hay “bình an” hay “bất tử”… Không dùng chữ A La Hán, nhưng dùng chữ “người trí huệ” hay “người không bị trói buộc”…

Hai nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời đó là Aṭṭhaka (Phẩm Tám, tức là phẩm thứ tư của Kinh Tập) và Pārāyana (Phẩm Qua Bờ Bên Kia, tức là phẩm thứ năm của Kinh Tập). Trong Hán Tạng, thiếu Phẩm thứ năm vừa dẫn, chỉ có Phẩm thứ tư, được Ngài Nhất Hạnh dịch là “Kinh Nghĩa Túc – Đạo Bụt nguyên chất”…

Thầy Nhất Hạnh giải thích, trích: “Đạo Bụt Nguyên Chất là một cuốn sách gồm có 16 bài kinh rất nguyên chất, rất cổ xưa về văn và về nghĩa, được Bụt nói vào những năm đầu khi Ngài mới thành đạo. Những kinh này được dịch từ kinh Nghĩa Túc phẩm thứ tư của kinh tập (Sutta- Nipàta)…”

Nếu đọc kỹ, sẽ thấy những lời dạy trong Lâm Tế Lục của Thiền Tông Trung Hoa (như “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ…”) thực sự Đức Phật đã dạy trong Phẩm Aṭṭhaka của Kinh Tập, và hệ thống Tánh Không và Trung Luận của Long Thọ  đã nằm sẵn trong hai phẩm Aṭṭhaka và Pārāyana. Đó là lý do nhiều vị thầy đã dịch Kinh Tập sang Anh văn.

Thứ ba, cánh cửa lớn. Đây là cơ hội làm việc chung cho tất cả các tăng ni, cư sĩ trong và ngoài nước, cho dù thuộc bộ phái nào, cho dù thuộc giáo hội nào… cũng đều có thể góp sức. Ngày hôm nay, hai vị trong nước chỉ mới thấy Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, nhưng tương lai đây là cánh cửa lớn để có thể dung thông với nhau. Nơi đây không dám bàn nhiều, chỉ là một gợi ý nhỏ, nhưng thực tế là nhiều ngăn cách lớn. Ai cũng tự hiểu.

Thứ tư, khuyến tấn Phật tử hoằng pháp. Cụ thể, xin quý Thầy tổ chức Giải sáng tác văn học, có thể gọi đơn giản là Giải Viết Về Phật Giáo. Và mỗi năm (hay mỗi 2 năm) sẽ gom các truyện hay hồi ký xuất sắc thành tuyển tập. Lý do: đây là một cách đơn giản để lôi cuốn những Phật tử đời thường, học lực trung bình. Khi họ viết, họ sẽ suy nghĩ, và đây là một phương tiện để Phật tử từ nhiều nơi khắp thế giới có thể tham dự, có thể góp sức để hoằng pháp. Như thế, Đại Hội Hoằng Pháp mở thêm được một cánh cửa cho người đời thường tham dự, không với tư cách dịch giả, nhưng với tư cách người đang tu học kể truyện về tu học, về buồn vui cõi này, về những vấp ngã và về những thay đổi.

Cuối bài, kính xin dâng 2 câu đối tới tất cả quý ngài dịch giả:

Bỏ quá khứ, buông tương lai, ngồi dịch trang Kinh, sống với đương thể hiện tiền
Xa hận thù, dứt tham ái, về chép lời Phật, đi qua kia bờ tỉnh thức.

Nguyên Giác
California, ngày 17/11/2021.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2015(Xem: 8041)
Đến bây giờ mới thấy đây. Câu nói này của ai mà nghe quen thuộc thế? Của Nguyễn Du rồi. Ô hay! Cái ở đây chỉ có thể thấy được khi mình trở về được với cái bây giờ. Đến được cái bây giờ thì mới thấy được cái ở đây. Cái ở đây là cái không gian. Cái bây giờ là cái thời gian.
20/01/2015(Xem: 7427)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7449)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 8131)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 15071)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 12273)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
17/01/2015(Xem: 8984)
Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp) Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị.
16/01/2015(Xem: 22137)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9803)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 8095)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]