Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Viên Giác (PDF)

18/08/202119:09(Xem: 9935)
Chùa Viên Giác (PDF)
Chua Vien Giac -HT Thich Nhu Dien-001Chua Vien Giac -HT Thich Nhu Dien-002


LỜI MỞ ĐẦU

    Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.

    Đầu năm 1994, tôi được điện thoại của Bộ Nội Vụ Liên Bang Đức mời xuống Bonn để thảo luận về một số dự án mà Bộ đã giúp chùa trong 15 năm qua cũng như những năm sắp tới. Ông Dr. Dammemann có nói với tôi rằng: Làm sao ông ta có thể biết được trọn vẹn sự sinh hoạt của chùa? Tôi trả lời rằng:
- Ông có thể đọc nơi tác phẩm của tôi, nhan đề là "CHÙA VIÊN GIÁC"; nhưng chắc chắn năm 1995 sách nầy mới được dịch ra tiếng Đức. Ông ta tỏ vẻ hài lòng; nhưng có lẽ sự chờ đợi hơi lâu. Lý do dễ hiểu là quyển sách nầy quá dày, ít nhất cũng trên 500 trang phần tiếng Việt, nếu in chung phần tiếng Đức vào đây e rằng sẽ lên đến 1.000 trang cũng không chừng, mỗi lần đọc khó khăn lắm. Do đó tôi đề nghị in riêng ra 2 thứ tiếng khác nhau. Ai muốn đọc tiếng Việt cũng được mà muốn tham cứu thêm tiếng Đức cũng được. Chỉ có thời gian hơi cách xa nhau thôi.

    Một tác phẩm được ra đời, nói lên hết tâm nguyện của người viết, về những gì đã xảy ra trong suốt thời gian 5 đến 10 năm kể từ khi vận động mua đất xây chùa cho đến nay, quả thật có quá nhiều điều để nói, để suy nghĩ, để luận bàn. Nhưng thời gian qua đi, những cái mới đến liên tiếp chập chùng, trong khi đó những cái cũ dễ chôn vùi vào dĩ vãng trong ký ức. Vì thế tìm lại dĩ vãng phải cần có thời gian và trí nhớ cũng như phải kiên trì với công việc nầy. Được nhân duyên lớn là mỗi năm An Cư Kiết Hạ 3 tháng, từ sau rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, mỗi buổi sáng tôi có ít nhất là 2 tiếng đồng hồ để viết sách sau thời công phu khuya và tọa thiền, khi tâm hồn mình thanh thản, yên tịnh. Nhờ thế mà mười mấy năm qua tôi đã viết được mười mấy tác phẩm. Nếu không có những mùa An Cư Kiết Hạ, chắc tôi cũng đã chẳng làm được một việc gì trong công việc nầy cả. Tác phẩm nầy đến với quý vị hoàn toàn
không có tính cách khoe khoan hoặc bênh vực cho lý lẽ của người có trách nhiệm với ngôi chùa nầy mà chỉ để ghi lại những gì đã xảy ra trong suốt thời gian năm tháng xây cất, nhằm để lại một sử liệu nho nhỏ cho đời. Nếu mai nầy, ai đó có tìm đến ngôi chùa xưa, dễ bề tra cứu. Nó chỉ đơn giản thế thôi. Trong sách chắc chắn có nhiều chỗ lặp lại. Vì cùng một công việc, một sự kiện mà được nhắc tới ở nhiều thời điểm khác nhau nên không tránh khỏi việc trùng hợp và đôi khi có thể trái ngược nhau là khác. Nếu nhìn ra được những điểm ấy, xin quý vị góp ý cho.

   Sách nầy tôi chia ra làm 3 phần. Phần I viết trong mùa An cư kiết hạ năm nay (1994). Phần II sưu tập lại tất cả những bài mà tôi đã viết và đăng rải rác trên tạp chí Viên Giác từ năm 1984 đến nay về việc xây chùa Viên Giác để quý vị độc giả có một cái nhìn thực tế những dữ kiện nhiều hơn. Phần III là những hình ảnh của ngôi chùa từ khi chỉ còn là một miếng đất trống cho đến ngày hôm nay khi Tân Viên Giác Tự đã hoàn thành. Công đức nầy có được, tôi xin cảm ơn tất cả quý Đạo Hữu, Phật Tử xa gần trong cũng như ngoài nước Đức, Phật Tử cũng như không Phật Tử; người Việt cũng như người Đức đã đóng góp công cũng như của để có được một ngôi chùa trị giá 9.000.000 Đức Mã tương đương với 5 triệu rưỡi Mỹ Kim, là một trong những chùa lớn nhất tại hải ngoại ngày nay, có một kiến trúc tân kỳ và có khả năng dung chứa nhiều ngàn người đã trở thành tài sản cũng như trụ sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu mà chúng tôi đại diện cho Tăng cũng như tín đồ Việt Nam tại Đức hiến dâng trong Lễ Khánh Thành năm 1991 và Lễ Hoàn Nguyện năm 1993 vừa qua. Bởi vì cảm nhận được rằng tất cả những gì trên thế gian nầy đều không thể thoát ra ngoài 4 nguyên lý chính là vô thường, khổ, không và vô ngã theo giáo lý của nhà Phật, nên tôi đã làm một bổn phận, như bao bổn phận khác trong cuộc đời. Xin hiểu đơn giản thế thôi và phải nhìn cuộc đời bằng cặp mắt: như thị, như thị. Ai sanh ra trong cuộc đời nầy cũng đã chẳng mang theo được một vật gì, thì khi chết đi cũng chẳng đem theo được gì cả, mặc dầu trên suốt lộ trình sanh tử ấy chúng ta đã gây ra không biết bao nhiêu phước, đồng thời chúng ta cũng tạo không biết bao nhiêu tội, nên tài sản, của cải, danh vọng, địa vị cũng chỉ là ánh lửa, bóng trăng vậy thôi. Chỉ có nghiệp lực là quan trọng nhất, ta không muốn mang theo, nó cũng sẽ tận tụy suốt cả dòng thời gian phục vụ cho chính mình.

    Điểm then chốt là ở đó. Hiểu và phải thực hành chơn lý nầy, nên ngay cả bây giờ tôi cảm thấy tự tại ung dung trong cuộc sống hằng ngày. Sở dĩ tác phẩm nầy thành hình được là nhờ sự tài trợ tài chánh của Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức, mỗi năm như thế, tôi vẫn nhận được ân huệ nầy. Công đức ấy không thể nào quên mà phải thành thật nói rằng: Nếu không có những sự tài trợ cần thiết đó, chắc chắn rằng những tác phẩm nầy không thể nào đến tay quý vị được. 

    Xin tạ ơn Tam Bảo đã cho tôi một sức khỏe liên tục, từ năm nầy qua tháng nọ và một ý chí kiên cường để vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trở ngại của cuộc đời. Lạy Phật cho con được tròn ước nguyện là sống phải làm xong bổn phận, sau nầy có ra đi chẳng ân hận một điều gì. Xin cảm ơn tất cả  những người thân kẻ sơ bên mình, người cận sự cũng như kẻ viễn phương, dầu dưới hình thức nào, tôi cũng đã mang ơn của quý vị để hiện hữu trên cuộc đời nầy. Ơn nghĩa ấy quyết chẳng bao giờ quên.

    Hai đấng sinh thành đã mang tôi vào đời, nuôi tôi khôn lớn, biết chọn lẽ phải đường ngay để bước vào con đường đạo. Công ơn cao như núi, rộng như biển ấy, chắc chắn muôn đời khó đền đáp được. Với những dòng chữ nầy, xin cảm ơn tất cả quý Thầy, quý Cô ở Đạo cũng như Đời đã giúp cho tôi biết được chữ viết, biết quan niệm sống trong cuộc đời, biết mình, biết người... đó là những chất liệu dưỡng sinh về tinh thần mà suốt cuộc hành trình trên đường sinh tử tôi vẫn cần đến.

   Xin cảm ơn tất cả những ai đã lưu tâm đến tác phẩm nầy và mong rằng sau khi đọc xong, xin quý vị cho biết một vài cảm tưởng hay ý kiến xây
dựng thiết thực, quả cũng rất cần cho tác giả. Xin cảm ơn những vị đã tận tụy với tôi trong các khâu đánh máy, xem bài, làm phim, làm bảng kẽm, in, ấn, sắp thành sách v.v... để có được quyển sách trong nhà như thế nầy.

    Lời cuối xin hướng về Tam Bảo, nếu quyển sách nầy có được phần lợi lạc nào ở phương diện tinh thần, xin hồi hướng lên Tam Bảo chứng minh và gia hộ cho mọi việc được thành tựu viên mãn. 

Đức Quốc, Viên Giác Tự
Mùa An Cư năm Giáp Tuất
Hannover, ngày15 tháng 7 năm 1994 Tác giả cẩn chí

Thích Như Điển

pdf-icon



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 8606)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10160)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9492)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8469)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8854)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6639)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21457)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7438)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7052)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13962)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]