Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điểm sách: Triết Lý và Thi Ca

08/08/202119:32(Xem: 5341)
Điểm sách: Triết Lý và Thi Ca

Điểm sách: Triết Lý và Thi Ca

Philosophy and Poetry của Nguyên Siêu,
Translated by Diệu Kim & Nguyên Đức
 
Thích Như Điển

 TrietLyVaThiCa-NguyenSieu

Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021. Sách được trình bày bởi Lotus Media/Vĩnh Hảo. Bên trong có nhiều phụ bản rất đẹp được trình bày bởi Hạnh Tuệ và Hạnh Từ. Ảnh bìa có hình gác chuông chùa Hải Đức Nha Trang. Có loại bìa cứng và có loại bìa thường. Sách in rất trang nhã, dễ đọc.

 

Thời buổi bây giờ cầm một quyển sách trên tay mấy trăm trang như vậy, không phải là ai cũng có đủ can đảm để đọc. Bởi lẽ: “Thời gian là vàng bạc”; nhưng nếu lấy vàng để mua thì cũng không thể có được nội dung của quyển sách như thế nầy. Nếu ta không trải lòng ra để chăm chú đọc sách. Do vậy người ta thường nói rằng: “If you have some money, you can buy some books, but not Understanding” (Nếu Anh có tiền, Anh có thể mua một vài quyển sách, nhưng không thể mua sự hiểu biết). Vậy sự hiểu biết nầy từ đâu mà có? Đó là từ sách vở. Bởi vì nếu chúng ta không chịu khó đọc sách, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu về tư tưởng của người khác. Tư tưởng của một người rất quan trọng. Bởi chính họ đã đem hết tâm can, sự hiểu biết, kinh nghiệm, sự thăng trầm của cuộc sống để viết, mà chúng ta đọc được những điều này, có nghĩa là chúng ta sẽ hiểu được phần nào tư tưởng của tác giả.

 

Tác giả là một vị Hòa Thượng, hiện đang Trụ Trì chùa Phật Đà tại San Diego, Nam California Hoa Kỳ. Ngài đã ở Hoa Kỳ trên 30 năm; hiện là Phó Thư Ký Hội Đồng Hoằng Pháp và là Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ. Người đã có công viết lại những suy tư về tuổi thơ, về cha mẹ về Thầy Tổ, về mái chùa xưa, về những kỷ niệm quê hương, nơi đó Người đã được lớn lên và trưởng thành. Mặc dầu Ngài ở ngoại quốc, số thời gian chắc là lâu hơn trong nước, nơi Ngài đã được sinh ra, nhưng đọc suốt 272 trang sách, tôi ít nhận ra được bài nào được viết ở ngoại quốc xuất sắc và đậm đà tình cảm như nhiều bài đã được viết bằng văn xuôi hay văn vần cho quê hương và tuổi thơ. Thơ cũng thế, thi thoảng lắm tôi mới thấy được vài bài Hòa Thượng viết về cảnh vật tại Mỹ Châu, nhưng tình cảm thì nơi những bài thơ nầy, cũng không sâu sắc bằng những bài thơ đã được viết về quê hương, ngay cả những bài Ca Trù.

 

Đọc suốt cả quyển sách, tôi tâm đắc nhất có thể nói là bài “Thị Hiện Độ Sanh” từ trang 123 đến trang 177. Đây là bài viết dài nhất về cuộc đời của Đức Phật, đa phần là chuyện kể ngắn gọn, không có thơ đi kèm; nhưng với tôi, là một tuyệt tác. Bởi lẽ, Võ Đình Cường đã viết về cuộc đời của Đức Phật qua tác phẩm Ánh Đạo Vàng hay như thế nào, thì phần Thị Hiện Độ Sanh nầy cũng không kém chất liệu thi vị hóa cuộc đời của Đức Phật, qua tài sử dụng văn chương và câu cú rất chuẩn mực, khiến cho người đọc cứ phải lần mở hết trang nầy đến trang khác, đọc cho đến lúc chấm hết chuyện mới thôi. Đây là sự thành công của Tác giả. Dĩ nhiên chỉ chừng ấy trang sách viết lại cuộc đời của Đức Phật, không thể đủ để diễn tả hết được lịch sử của Đức Thích Ca Mâu Ni từ khi sinh ra cho đến khi nhập Đại Bát Niết Bàn, nhưng nếu ai không có thời gian nhiều và ngay cả những ai được sinh ra và lớn lên tại ngoại quốc, không rành tiếng Việt lắm thì cũng có thể vào trang 395 để đọc bài Appearance in the World to save Sentient Beings” của Diệu Kim & Nguyên Đức dịch sang tiếng Anh, cũng sẽ tìm được những ý vị của câu chuyện không khác gì những trang chữ Việt.

 

Những bài đầu của sách, Tác giả vừa viết văn vừa cho thơ vào để người đọc cảm nhận được nhiều điều mà Tác giả muốn gửi gắm đến với các độc giả. Dĩ nhiên khi đọc thơ thì mỗi người sẽ cảm nhận khác nhau, không ai giống ai cả. Ví dụ như ai đó sinh ra vào tiền bán thế kỷ thứ 20 thì thích thơ Đường luật hơn là thơ tự do ở hậu bán thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ thứ 21. Làm thơ tự do thì dễ, vì nghĩ sao viết vậy, không cần niêm luật gì cả. Nếu là thơ Đường luật thì phải: Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục, phân minh và trong 8 câu nầy bắt buộc phải gồm: hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận và hai câu kết phải theo niêm và luật đúng như vậy, mới gọi là một bài thơ hay. Hoặc giả thơ Việt Nam thuần túy như Tác giả Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong bài Thề Non Nước” mà Tác giả HT Nguyên Siêu cũng đã có trích dẫn một đoạn trong bài viết của mình. Thỉnh thoảng tôi vẫn đọc được đâu đó trong 205 đoạn thơ 4 câu từ trang 212 đến trang 257 có những bài lục bát rất hay gieo đúng vần điệu của thơ Việt Nam 6 và 8 chữ như sau:

Bài 15

Quê mình ở giữa trần gian

Mà sao chẳng thấy an nhàn gì đâu

Một mai có chuyện cơ cầu

Tấm thân như thể vàng màu chiều thu

Bài 45

Người đi giữa cuộc vô thường

Tôi về thắp một nén hương cho mình

Cầu xin trọn kiếp nhân sinh

Ân tình cho trọn đệ huynh đong đầy.

Bài 104

Tuyết sơn phủ lấp đường về

Chơ vơ một mảnh hồn quê xứ người

Gập ghềnh giấc mộng đôi mươi

Mù sương khỏa lấp trận cười thâu đêm.

Bài 178

Tôi về nhặt cánh phượng hồng

Phơi trên nền gạch nhưng lòng vẫn tươi

Ôn đi để lại nụ cười

Cho hàng hậu học người người nhớ Ôn.

 

Thi thoảng trong 205 đoạn thơ cũng có vài bài Tác giả đã viết theo lối song thất lục bát cũng là lối thơ đặc biệt của Việt Nam như:

 

Bài 123

Chim ríu rít trên cành hoa bưởi

Màn nhện giăng đón gió xuân về

Lũy tre xanh mướt câu thề

Trăng Rằm sáng tỏ dân quê thanh bình

 

Bài 184

Thành phố nọ nằm yên bất động

Những con đường vắng bóng người đi

Một thời hương sắc xuân thì

Giờ ra như đã còn gì thuở xưa.

 

Nhờ đọc tác phẩm nầy của Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu viết mà cá nhân tôi có cơ hội để hồi tưởng về quê hương, tình người và đạo pháp. Trong nầy Tác giả đã khéo léo giới thiệu về tình nghĩa Thầy trò, ngôi chùa Hải Đức, đồi Trại Thủy, những am cốc của Quý Ôn và đặc biệt là quê nhà, nơi chôn nhau cắt rốn cùng với sự đùm bọc nuôi dưỡng của Mẹ Cha cho đến ngày Hòa Thượng xuất gia tu học. Đâu đó chúng ta cũng bắt gặp được nhiều bài viết về thi ca trong đó có triết lý sống cũng như hành hoạt của một người xuất gia tại hải ngoại ngày nay.

 

Tôi xin trang trọng điểm qua vài dòng tư duy như vậy và nếu có duyên thì xin Quý vị tìm sách để đọc, sẽ có nhiều cảm nhận khác nhau. Từ đó chúng ta sẽ trân quý sách và cảm ân Tác giả đã ươm mầm tuệ giác cho đời nầy cũng như đời sau được thấm nhuần ơn vạn pháp.

 

 

Viết xong vào lúc 17:00 ngày 5 tháng 8 năm 2021 tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

 

 

 

 



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2013(Xem: 10237)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8678)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12585)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8450)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
17/10/2013(Xem: 40136)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 30303)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 25923)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 41390)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
16/10/2013(Xem: 19470)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
14/10/2013(Xem: 19543)
Nàng thở ra một hơi thật dài, mặt sáng lên, vui mừng nói: “Bây giờ em mới thực sự hết lo về chuyện cô cán bộ ấy. Nhưng không biết cô ấy và ông thầy kia có thoát được thật không hay là cuối cùng lại bị bắt? Em lo cho họ quá.” “Hy vọng họ thoát, vì từ đó về sau, không nghe cán bộ hay tù nhân trong trại đá động gì tới họ nữa.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]