Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vọng Tuệ Ngàn Hương Xưa…!

06/08/202108:59(Xem: 5087)
Vọng Tuệ Ngàn Hương Xưa…!


TT Thich Nguyen Tang_Giang tren Google Meet-12-2020

Vọng Tuệ
Ngàn Hương Xưa…!

 

Dấu chân xưa du hóa, một mảnh trời bao dung, gởi những lời vàng ngọc hương xưa bay khắp cả cung trời. Từ xứ Ấn, nơi thánh tích niềm tâm linh Tôn Giáo Phật Đà, Bậc Cha Hiền Đấng Như Lai Thích Ca truyền giáo, khai sáng nguồn tâm nuôi dưỡng chủng tánh cho chư vị Thánh giả Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, hay chư vị Thiên thần Long vương, Trời người quy kính, nghe Đấng Như Lai thuyết giảng, từ gốc nhìn sâu lắng, từ pháp tu thực hành, nên Vua Quan, dân chúng ở xứ Ma Kiệt Đà, xứ Kiều Tất La, vang khắp dòng suối chảy Hưng Long Chánh Pháp nơi xứ Ấn.

Có chư vị Thập đại đệ tử lớn, các vị Thánh Tăng tu tập chứng nghiệm, đạt thánh quả A-La- Hán. Tôn Giả A- Nan nối truyền Kinh Tạng nghe thông thuộc ghi nhớ không sót một câu, Tôn Giả Đại Ca Diếp nối truyền Y bát tâm tông Phật trao, làm đệ nhất Tổ sư truyền thừa, vị Luật sư Tôn giả Ưu Ba Ly, và 500 vị A- La-Hán, kết tập Kinh điển Giáo lý mà Đấng Như Lai thuyết trình qua 49 năm hành hóa độ sinh, Tôn Giả A- Nan là vị trùng tuyên Kinh Tạng, Tôn Giả Ưu-Ba-Ly là vị trùng tuyên Luật Tạng, nơi Hàng thất diệp nước Ma Kiệt Đà, nhờ đó mà khẩu dụ giáo thuyết lời Phật dạy trải dài về sau mà ghi chép. 


Chư vị lịch Đại Tổ Sư truyền mạch, giảng giải, luận sớ, chú thích, ra nhiều bộ luận, chư vị Luận sư: Vô Trước, Thế Thân, Long Thọ, Trần Na, Pháp Xứng, Mã Minh,… truyền từ Bắc Ấn, xuống Nam Ấn, vượt thuyền sang các vùng Đông Á, qua đến tận trời Tây.


Hai mươi tám vị Tổ sư truyền mạch Xứ Ấn, truyền qua xứ Đông độ, kế tiếp Mười tám vị Tổ sư, tính từ Tổ Đạt Ma. Khơi dòng mạch nhánh truyền thừa có các dòng chi phái: Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn…!


Khởi nguồn về mười tông phái xiển Dương Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông, Duy Thức Tông, Trung Quán Tông, Luật Tông, Hoa Nghiêm Tông, Câu Xá Tông, Tam Luận Tông, Thành Thật Tông..!  Nhưng không ngoài Tam vô lậu, Bát Chánh, Tứ đế, Nhân Quả, Nghiệp báo, Thập nhị nhân duyên, Ba Bảy trợ đạo, chung quy cũng là một chữ: “Tu Phật” …! 


Thấm nguồn mạch trí, khơi sáng đèn tâm, vận thiền tu tuệ, lấy nguyện bi hương, suối chảy dòng mạch, hạnh sáng khai tông, xiển dương pháp trí, vận dụng bi tâm, uy hùng nối gót, vang danh chư vị do đức hạnh, giới luật nghiêm trì, luận đàm chú dịch, phóng tác thi ca, gương sáng Thiền treo bên thất củ, nối pháp Tào Khê chảy tận biển Đông mà các đời vua, chúa, sắc phong danh hiệu: Quốc Sư, Pháp Sư, Tăng Cang, Tăng Thống, Thần Tăng, Danh Tăng, Cao Tăng, trải qua các triều đại xứ Đông Độ, và lan rộng đến: Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Bhutan, mà mạch vàng y pháp cứ vậy mà trao bình y pháp, già lam trú xứ, tùng lâm cổ tự cứ vậy mà nhận ân điển sắc phong, vua trao Độ điệp Giới đao, gối thiền, kinh tuệ như sao sáng, dáng Thượng Sư như trác phong Thiền lưu, vang danh sử gia, ghi vào sử sách, sáng ngọc lưu hương, như tâm: tâm chư Phật, như Chứng: chứng Đại thừa Thiền phái, trong mạch khí Phật thừa, Bồ Tát thừa, Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, Thiên thừa, Nhân thừa.


Chư Đại Tăng phải thông mạch Tam tạng, Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, thêm vào đó sức học Văn- Tư- Tu. Hướng đến quán chiếu Giác ngộ và giải thoát Chân như, khởi tâm chánh niệm đến tịch lạc Niết bàn vi diệu. Khiến cho đức hạnh tỏa hương xa. 


Vọng tuệ ngàn hương xưa, giữa đầu Thế kỷ 21 này, thăng trầm, thịnh suy, biến dịch thời cuộc, giữ được tâm sáng Chánh Pháp là phúc, giữ được lối mạch truyền thừa gọi là có gốc rễ từ lâu.


Vọng tuệ ngàn hương xưa, như biết bao vị Tam Tạng Pháp Sư, Tôn túc Trưởng Lão Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, đã dầy công biên soạn, dịch thuật, chú giải, lược sớ, trao truyền Chánh thống lời Kinh Luật Luận, gốc từ dưới đất bám sâu, ngọn lá cây nhành đều vun bồi học tập. Giữ giới như gốc, giữ kinh như lá bối diệp, giữ luận như vô vi diệu lý vận hành Tứ Diệu Đế, ứng hoá Bát Chánh Đạo vào đời. Lấy Thân làm kim chỉ nam nuôi dưỡng, lấy bi trí mà vận mạch song hành.


Kẻ Sĩ Thế Tôi, là người con Phật, xuất gia tu Đạo, đâu dám quên lý tưởng Phật trao, đâu dám quên lời từ Tôn Sư trao giới, đâu dám quên việc giữ gìn căn nhà Chánh pháp qua luận giải sớ văn, đâu dám quên các dòng Thiền Phái mà chư Tổ dầy công tạo dựng, kế tục xuất Trần, nối dòng Lâm Tế, hay bất kể Tôn túc Hạ lạp Cao niên đều phải một lòng quy kính.

         “Hạnh Phúc Thay, Khoác Ca Sa Mầu Nhiệm.

          Giữ Bồ Đề, Giới Pháp Thấm Huyền Kinh.

          Noi Gương Trí, Bậc Môn Phong Dạy Bảo.

          Kế Tục Truyền, Trăng Sáng Pháp Uy Linh….!”


Nhân duyên, hằng đêm Kẻ Sĩ Thế Tôi thường nghe Online trang nhà Quảng Đức, do Thượng Tọa Trú Trì Tu Viện Quảng Đức thượng Nguyên hạ Tạng- Melbourne, Úc Châu. Tại Xứ Úc Châu, nhiều vị Giảng sư hoằng hoá, cống hiến về các pháp môn, từ học đến giảng giải, về pháp tu, pháp học, pháp hành, pháp ứng, pháp dụng, pháp trì. Vì tu học lấy Tam Vô Lậu Học làm sự nghiệp hoằng dương pháp mạch của chư Phật. Trong đó có Thượng Tọa Nguyên Tạng.


Giữa đại dịch COVID này, tất cả mọi duyên đều phải tạm dừng, ngồi yên nắm lấy vận Huệ sự sống, nên chư vị thiện tín muốn hiểu sâu giáo nghĩa, thì cần ngồi nghe tu học, đọc và biên chép, tu là để tự mình dễ thương và liễu tri từ tâm nguyện Ân sư giáo hóa khai triển, chỉ có công nghệ 4.0, mới giúp cho người trí thức, học hỏi về Chánh pháp của chư Phật và Chư Tổ qua nền tảng kinh nghiệm pháp hành mà chư vị Đại sư trao gởi.


 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một trong những vị hoằng pháp có thâm niên, giảng về Tổ Sư Thiền và Hành Trạng Chư Vị Tổ Sư, Kệ và Ý Nghĩa Chuông Trống trong chốn Tùng lâm, Thiền thất. 


ht thich tri thu

Ngoài ra, Thượng Tọa triển khai giáo lý lễ lạy 108 lễ tôn hiệu Chư Phật do Trưởng Lão Trí Thủ soạn thuật hành trì rút từ kinh Tạng. Nghi thức Hành trì trong Thiền môn, giảng Thập Đại Đệ tử Phật, 142 bài giảng về Chư Vị Tổ sư Ấn- Hoa- Việt, Giảng 48 lời đại nguyện Đức Phật A Di Đà…! Và nhiều tùng thư khá quan trọng trong pháp hành tu Phật.


 “Ta có thể biết, Ngọc ẩn bên trong chéo áo, hỏi giàu không..? Đáp rằng: Giàu, nhưng không bằng người nghe pháp, hiểu pháp, vị ấy sẽ chuyển nghiệp còn giàu hơn cả tiền tài phù hư..!”


 Thượng tọa là vị học giả, có tuệ giác sâu sắc, vừa là dịch giả, trước tác áng văn, viết nên trang sử Việt bi hùng, có một số sách đã ấn bản khá nhiều, sứ mệnh độ sinh luôn là mạch trí khai thông. Trích dẫn từ những ấn bản hay.

Phải kể đến dịch phẩm từ các bản tiếng anh hay như:

       
Những ấn bản viết về pháp tu pháp học, khá nhiều câu chuyện mang tính từ học chuyển hoá như: Gương sáng niệm Phật, Bát Cơm Hương Tích, Chén Trà Tào Khê, Ngắm Trăng Lăng Già…! 


Từ những phương diện trên Kẻ Sĩ Thế Tôi rút cho mình bốn chất liệu sau:

1: Tín Tâm Chuyển Tánh:  Nghĩa là ta cần phải có tâm chân chánh uy tín từ học để tự mình tháo gỡ tham, sân, si, phiền não uế trượt nhiều đời, thâu tóm chuyển hóa qua lời dạy mà ta được học từ Tôn sư thuyết pháp.


2: Dụng Hành Công Phu:
 Mỗi ngày đi qua dù ở quốc thổ nào chúng ta cũng dành cho riêng mình một không gian tu học, chính thức nó giúp ích được cho ta dụng hành để làm nền tảng công phu, có vậy mới xứng danh tu học tùy hỷ, như Thượng tọa trao chứng chỉ tu học Online qua các bài giảng, cho chư vị Phật tử đủ duyên.


3: Giữ Bồ Đề Nguyện: 
Các vị thính chúng thiện tín nam nữ, cần phải giữ Bồ Đề tâm, gieo duyên hộ trì Chánh Pháp, chuyên cần niệm Phật công đức, cúng dường hộ trì Chánh pháp cho Tăng già, nơi nào có Tăng hành hóa nơi ấy sẽ có Long Thiên chư Phật ngự tọa, như Pháp Hoa Kinh dạy trong phẩm Hiện Bửu Tháp..! Chúc quý vị học trò của Thượng Toạ luôn giữ gìn Bồ Đề tâm.


4: Lấy Ngọc Kim Cương Trí, Chớ lấy Rác Tâm Phiền Não:
Nghĩa là kim cương là quý báu, pháp hành chính pháp của Như lai như ngọc Kim cương, không một vị nào phá nổi pháp Phật, vì Pháp Phật luôn có các vị Hộ pháp Kim cang giữ gìn. Tăng Sĩ có tu và học, có quán và tịnh, có nghiệm và nếm trải thì vị ấy có Long thần bảo hộ. Nếu không tu mà nói phét thì chẳng có gì chất liệu nếm trải nguồn tâm. “Làm Cư Sĩ Chớ Nhục Tâm Quên Pháp, Đã Học Pháp Nhớ Vận Dụng Công Phu..”


Vậy thì công phu chính là quán tuệ, hành sử là trí đi ra, rác trong nhà cần quét sạch, chớ mang vào nữa thêm phiền ngu sĩ.


Nhân duyên ấy, Kẻ Sĩ Thế Tôi đã được tâm nguyện học hỏi, không những các học trò mà Thượng Tọa giáo huấn hướng dẫn tại xứ Úc Châu, mà còn vang đến: Mỹ Quốc, Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Nhật, Đức, Na Uy, Tân Tây Lan, các Châu lục đã nghe pháp âm này, nhờ vào trang mạng Quảng Đức do Thượng Toạ tiếp quản.  


Từng ấy thôi, cũng đủ sức mạnh thường túc của Thượng Toạ làm rung chuyển ma binh chống cự. Hằng năm vân du hành hóa của Thượng Tọa lưu dấu trên năm Châu như: Ấn Độ, Bhutan, Tây Tạng, Trung Hoa, Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, quả thật sức tu học ngoài trăng Lăng già chiếu bóng; Bát nhã thiền gói bịch cơm Hương tích đàn na. Vân quang mạch xứ cứ vậy mà Phật giáo thế giới phải cung nghi ngưỡng vọng, không những Phật tử cư sĩ nam nữ, mà còn danh tiếng nhìn lên thấy hương trầm từ chư vị Tôn túc cao minh chứng giám.

 

Kẻ Sĩ Thế Tôi lắng nghe bài học về Thiền Sư Khương Tăng Hội ( ?-280) có giảng về Kinh An Ban Thủ Ý.

Thượng tọa trích giảng rằng:  “An Ban gồm có sáu loại, nhằm đối trị sáu tình. Sáu tình chính là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

 

 Sáu loại, chính là: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Đây là Lục diệu Pháp môn, 6 cửa đưa hành giả đi vào trong chánh đạo, giác ngộ và giải thoát:

1) Sổ tức môn: Hành giả chú tâm vào hơi thở vô, ra đếm 1 đến 10 để cho tâm không vọng tưởng, điên đảo. Nếu đếm sai, lộn do tán tâm, phải bỏ và đếm lại từ đầu cho đến khi đếm thông suốt, chánh niệm.

2) Tùy tức môn: Khi việc đếm hơi thở đã được thông suốt trong chánh niệm, hành giả chuyển sang bước 2 là theo dõi đường đi của hơi thở vô và ra.

3) Chỉ môn: Không đếm, không theo dõi hơi thở mà dừng tâm lại chóp mũi.

4) Quán môn: Hành giả nhìn sâu, quán chiếu ngũ uẩn vốn không, quán thân bất tịnh, quán tâm bất an, quán thọ thị khổ, quán pháp vô ngã để phá chấp ngã, chấp pháp…

5) Hoàn môn: Hành giả xoay tâm quán chiếu bản tâm của mình để chứng thực vô lậu giải thoát.

6) Tịnh môn: Khi tâm đạt đến vô lậu thì mọi phiền não cấu uế vô minh lắng xuống tận diệt hoàn toàn, hành giả bước vào Niết bàn an lạc….”

     
Và đây lời dạy khá hay, Thượng Tọa giải thích câu:  “Một niệm không sanh vạn mối hòa”.  Tất cả các pháp môn tu đều phải đạt tới: “Một niệm không sanh” là đạt tới cứu cánh cuối cùng của sự chấm dứt sanh tử luân hồi. Một niệm không sanh, tâm an ổn, là chìa khoá đi vào cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.

 

Qua từng thời gian thôi ta cũng hiểu sự lý và sự tuệ của Thượng Tọa như bao trùm khắp thời gian. Trong pháp hành hóa chúng giữ nghìn trùng nhân duyên.

 

Thượng Tọa còn được diện kiến quý Ngài danh tăng thạc đức VN như: Hòa Thượng Trí Nghiêm, Thiện Siêu, Đức Nhuận, Đỗng Minh, Chí Tín, Trừng San, Minh Châu, Như Ý,  Thiện Bình, Tâm Châu, Đạt Lai Đạt Ma-14,  Khensur Rinpoche, Huyền Tôn, Như Huệ, Thắng Hoan, Minh Tâm ( Pháp) Tín Nghĩa, Bảo Lạc, Tánh Thiệt,   Đạt Lai Đạt Ma-14, Lạt Ma Khensur Rinpoche, Phước Sơn, Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Như Điển, Khế Chơn, Hải Ấn, Thái Hòa...và nhiều vị mà Thượng tọa đã thọ giáo, tham học nhiều căn bản tinh hoa..!  Trang Pháp học Khắp đó đây đã lắng nghe vang dội, khí trượng phu như mạch phúc thổi tâm.

         

Kẻ Sĩ Thế Tôi xin tán thán bài cảm mạch sau:

“Hương Suối Tuệ, Vang Danh Từng Không Nguyện.

Giới Thanh Âm, Trăng Sáng Cội Tùng Lâm.

Ngát Sen Kinh, Pháp Ngọc Luận Châu Pha.

Từ Bi Trí, Giữa Mối Đạo Nghi Trầm.

      

Dịch Thuật Giải, Tha Mây Chân Lối Hạnh.

Bậc Tôn Sư, Nguyên Tạng Thấm Huyền Kinh.

 Xứ Úc Châu, Thấm Nhuần Thanh Diệu Pháp.

Lược Ước Kiều, Ru Mãi Pháp Thiền Sinh.

 

Từ Học Giả, Ngân Kinh Thì Lược Thuật.

Luận Đàm Khương, Phóng Tác Gối Nhả Tơ.

Sâu Đến Cạn, Ứng Hành Lời Thầy Tổ.

Chuyển Nghiệp Xưa, Ôm Mộng Pháp Lên Bờ.

Cung Kính Bậc, Giảng Sư Niềm Quảng Đức.

Sự Nghiệp Truyền, Hoằng Hóa Thế Độ Tăng.

Hàng Thất Chúng, Năm Châu Đồng Quy Ngưỡng.

Vọng Hướng Thiền, Giữa Một Cõi Thiền Năng…”

 

Giờ đây, trong không gian tịch lắng từ Xứ Việt Quê hương, Kẻ Sĩ Thế Tôi vọng về vùng quốc độ Úc Châu, chắp tay đài hoa xin nguyện, Pháp Tướng Uy Nghi, dung thông dịch thuật, ngõ hầu cho muôn người những dòng tuệ pháp, những sữa thạch đấng hương tuệ bang trao, từng ngọn sóng Tùng vào trượng thất thiếu lâm Phật Cung xưa, nơi thức giả thính chúng vọng tuệ ngàn hương bay…! 

 

Viết tại Thiền Thất Phổ Tịnh- Hà nội, nhân mùa Hạ an cư, giữa mùa bệnh viêm phổi COVID-19. Từ nơi xa ấy vọng về tâm hương…! 

 

TK Thích Minh Thế

Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.

Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang 

Ngày 03-08-2021

 Ngày Âm Lịch: 25-06- Tân Sửu.

 

 

facebook-1
***
youtube
 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/10/2012(Xem: 6005)
Hỏi:Trong năm nay, giáo sư đã đi giảng dạy ở hai mươi sáu quốc gia. Xin giáo sư chia sẻ sự quan sát của mình về việc đạo Phật đang lan truyền đến những vùng đất mới ra sao. Đáp:Phật giáo đang lan truyền một cách nhanh chóng khắp thế giới hiện nay. Có những trung tâm Phật pháp ở nhiều quốc gia Âu châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Phi, Úc, Á châu và v.v… Chúng ta thấy có các Phật tử tại Âu châu, không chỉ ở những nước tư bản Tây phương, mà còn ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông phương nữa. Thí dụ như Ba Lan có khoảng năm nghìn Phật tử hoạt động tích cực. Đạo Phật rất có sức lôi cuốn đối với thế giới hiện đại, bởi vì nó hợp lý và dựa trên nền tảng khoa học. Đức Phật đã nói, “Đừng tin tưởng bất cứ điều gì ta nói chỉ vì lòng tôn kính đối với ta, mà hãy tự mình thử nghiệm nó, phân tích nó, giống như các con đang mua vàng.” Con người hiện đại ngày nay thích một sự tiếp cận không độc đoán như thế.
25/10/2012(Xem: 8412)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
25/10/2012(Xem: 8430)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
24/10/2012(Xem: 6688)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm. Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.
22/10/2012(Xem: 6618)
Sau khoá sám hối và toạ thiền buổi tối mùng 1 tháng 2 chùa Ba vàng trở nên tĩnh lặng. Bỗng xuất hiện một xe ô tô cấp cứu, trên xe là một chú bé có hình dạng mặt thật là ghê sợ, mặt chú lồi về phía trước như một quả bòng, 2 mắt cũng lồi lấm lét ở cuối đuôi mắt, gần 2 thái dương
21/10/2012(Xem: 5612)
Dường như người Nhật Bản rất thấm nhuần và áp dụng giáo lý đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày, cho nên họ quí trọng xem con người đều bình đẳng vì cùng có Phật tánh như nhau, chứ không dựa vào dáng vẻ giàu nghèo bên ngoài, thường xuyên làm chuyện phải có lợi ích cho người khác, cũng như không dám trộm cắp, hại người, để được nghiệp quả tốt. Chuyện thứ nhất: Trung thực
18/10/2012(Xem: 8290)
Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A–tu–la, người và trời.
17/10/2012(Xem: 6462)
Có 3 loại nghiệp ảnh hưởng đến tương lai của chúng ta không chỉ ở đời này mà còn ở nhiều đời sau là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Trong 3 loại nghiệp đó có lẽ khẩu nghiệp là dễ bị nhất vì hầu như không ai có thể tránh được giao tiếp với người xung quanh, từ gia đình cho đến xã hội. Trong các giới thì giới nữ lại càng dễ bị khẩu nghiệp nhất. Với bài viết này, chúng tôi mong quý Phật tử nữ (Ưu Bà Di) nên thận trọng hơn khi dùng lời nói của mình.
17/10/2012(Xem: 8688)
ôi rất mongquý vị sẽ nắm bắt được thế nào là "cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo".Trong buổi nói chuyện hôm nay, nếu tôi nêu lên câu hỏi: "Vậy cốt lõi củagiáo huấn Phật Giáo là gì?" thì nhất định tôi cũng sẽ nhận được vô số cáccâu trả lời trái ngược nhau, không câu nào giống với câu nào cả. Mỗi người trảlời tùy theo những gì mà họ được học hay được nghe, hoặc là do sự suy luậnriêng của mình. Chúng ta cứ thử nhìn vào những gì đang xảy ra trong thế giớingày nay xem sao. Trong thế giới của chúng ta còn có được mấy ai đủ sức để nhậnbiết đâu là cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo? Và trong số đó có mấy ai đã mangra ứng dụng hiệu quả được cái cốt lõi đó?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]