Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền giả Yuval Noah Harari: Bài học 1 năm từ Covid-19

03/08/202118:48(Xem: 4154)
Thiền giả Yuval Noah Harari: Bài học 1 năm từ Covid-19

Thiền giả Yuval Noah Harari: Bài học 1 năm từ Covid-19

(Yuval Noah Harari: Les leçons d'un an de Covid)
Thiền giả Yuval Noah Harari một nhà sử học người Israel

Trong một văn bản độc quyền bằng  tiếng Pháp, Thiền giả Yuval Noah Harari, một nhà sử học người Israel, giáo sư Khoa học Lịch sử  tại Đại học Hebrew của Jerusalem, trường đại học lâu đời thứ hai ở Israel, sau trường Technion. Ông là tác giả của các quyển sách bán chạy nhất thế giới “Sapiens: Lược sử loài người” (2014), “Homo Deus: Lược sử tương lai” (2016) và “21 bài học cho thế kỷ 21” (2018). Bài viết của ông xoay quanh ý chí tự do, ý thức, trí tuệ và hạnh phúc. Nhìn lại năm đặc biệt này. Sau một năm khám phá khoa học và những thất bại chính trị, chúng ta có thể rút ra bài học gì cho tương lai?

Có thể chúng ta tổng kết năm Covid-19, nếu chúng ta nhìn nó từ góc độ lịch sử toàn cầu không? Nhiều người tin rằng số lượng rất nặng của Virus corona chứng tỏ sự bất lực của con người trước sự toàn năng của thiên nhiên. Trên thực tế, năm 2020 đã cho thấy rằng nhân loại còn lâu mới không còn bất lực. Dịch tễ không còn là lực lượng không thể kiểm soát của tự nhiên. Khoa học đã biến chúng thành những thách thức không thể vượt qua. Nhưng tại sao, tại sao chúng ta lại than khóc nhiều nạn nhân và đau khổ như vậy? Vì những quyết định chính trị tồi tệ. Ngày xưa, khi mọi người phải đối mặt với những bệnh dịch như Cái chết Đen (tên gọi của 1 đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ 14), họ không biết điều gì có thể gây ra nó, hoặc làm thế nào nó có thể được kiểm soát. Khi dịc cúm Tây Ban Nha bùng phát vào năm 1918, các nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới đã thất bại trong việc xác định loại Virus chết người, hầu hết các biện pháp được thực hiện đều vô ích, và những nỗ lực khác nhau để phát triển một loại Vaccine hiệu quả đều không thành công.

Nó khác với Covid-19. Các dấu hiệu cảnh báo đầu tiên về một ngày dịch mới tiềm ẩn từ cuối tháng 12 năm 2019. Kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2020, các nhà khoa học không chỉ phân lập được virus gây ra, mà còn giải mã bộ gen của nó, và công bố trên các phương tiện truyền thông xã hội. Vài tháng sau, chúng tôi biết những biện pháp nào sẽ làm chậm lại, và thậm chí phá vỡ chuỗi ô nhiễm. Trong vòng chưa đầy một năm, một số loại Vaccine hiệu quả đã được sản xuất hàng loạt. Trong cuộc chiến giữa con người và mầm bệnh, con người chưa bao giờ mạnh mẽ hơn thế.

Cùng với những kỳ công của công nghệ sinh học, năm Covid-19 cũng nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của công nghệ thông tin. Trong quá khứ, nếu nhân loại gặp khó khăn khi chịu đựng với dịch bệnh, đó là vì chúng ta không thể theo dõi chuỗi ô nhiễm tron thời gian thực, và chi phí kinh tế của việc giãn cách Xã hội kéo dài là rất lớn.

Vào năm 2018, bạn có thể cách ly những người đã mắc căn bệnh đáng sợ, nhưng bạn không thể theo dõi sự di chuyển của những người mang mầm bệnh, có triệu chứng hoặc không có triệu chứng. Và nếu bạn ra lệnh cho người dân của cả một quốc gia phải ở nhà trong nhiều tuần liền, bạn sẽ gặp một cuộc khủng hoảng kinh tế, chia rẽ xã hội, và nạn đói lan rộng.

Ngược lại, vào năm 2020, giám sát kỹ thuật số đã tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều cho việc theo dõi và định vị các vật trung gian truyền bệnh, qua đó việc kiểm soát dịch có thể chọn lọc hơn và hiệu quả hơn. Quan trọng hơn, tự động hóa và Internet đã khiến việc khóa chặt sinh hoạt xã hội trở nên khả thi, ít nhất là ở các quốc gia phát triển. Nếu, ở một số khu vực nhất định của thế giới đang phát triển, đại dịch có thể khiến chúng ta nhớ lại những thảm họa trong quá khứ, thì ở hầu hết các quốc gia phát triển, cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi hoàn toàn tình hình.

Ví dụ nông nghiệp. Trong hàng nghìn năm, sản xuất lương thực dựa vào lao động: khoảng 90% người dân làm việc trên đồng ruộng. Ngày nay, ở các quốc gia phát triển, điều này không còn xảy ra nữa. Tại Hoa Kỳ, chỉ có khoảng 1,5% người dân làm việc trong các trang trại, điều này không chỉ nuôi sống người Mỹ mà còn đưa Hoa Kỳ trở thành nước xuất khẩu lương thực hàng đầu. Hầu hết các công việc nông nghiệp đều được thực hiện bằng máy móc không sợ dịch bệnh. Do đó, việc khóa chặt sinh hoạt xã hội chỉ có tác động nhẹ đến nông nghiệp. Hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì vào thời điểm Cái chết Đen. Nếu bạn nói với công nhân nông trại ở nhà trong mùa thu hoạch, nạn đói được đảm bảo. Và nếu bạn bảo họ bằng mọi cách phải đến và thu hoạch, họ có nguy cơ lây nhiễm cho nhau. Để làm gì? Bây giờ hãy tưởng tượng cùng một cánh đồng lúa mì vào năm 2020. Một tổ hợp được dẫn đường bằng Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) duy nhất, có thể thu hoạch toàn bộ cánh đồng với hiệu suất cao hơn đáng kể, và không có nguy cơ ô nhiễm.

Năm 1349, một công nhân nông trại thu hoạch trung bình 130kg mỗi ngày, vào năm 2014, một máy gặt đập liên hợp đã phá vỡ kỷ lục, khi thu hoạch gần 800 tấn trong một ngày. Nói cách khác, đại dịch Covid-19 không có tác động đáng kể đến sản xuất lương thực chính trên toàn cầu như lúa mì, gạo hoặc ngô (bắp). Tuy nhiên, để nuôi sống con người, thu hoạch lúa mì là không đủ. Nó vẫn phải được vận chuyển, đôi khi trên vài nghìn km.

Vai trò cơ bản của tự động hóa và phi vật chất hóa

Hầu như luôn luôn, thương mại đóng một vai trò xấu trong các làn sóng đại dịch. Các mầm bệnh chết người lang thang khắp thế giới, trên các tàu buôn và đoàn lữ hành đường dài. Như vậy, chính bằng cách “quá giang” trên Con đường Tơ lụa mà Cái chết Đen đã đi từ Đông Á đến Trung Đông, và chính các tàu buôn người Genova sau đó đã đưa nó đến châu Âu. Nếu thương mại là mối đe dọa chết người, đó là bởi vì mỗi chiếc xe hàng hóa phải được lái bởi một người tài xế chở hàng, bởi vì phải mất vài chục thủy thủ để điều hướng ngay cả một con tàu nhỏ ngoài khơi, và bởi những chiếc thuyền và nhà trọ đông đúc là những điểm nóng của dịch bệnh.

Năm 2020, nếu thương mại quốc tế có thể tiếp tục hoạt động, mà không gặp quá nhiều vấn đề thì đó là bởi vì nhu cầu lao động của nó rất hạn chế. Những  con tàu chở Container được tự động hóa, phần lớn ngày nay có khả năng chở nhiều hàng hơn cả đội tàu buôn của Vương quốc vào thời kỳ đầu hiện đại.

Năm 1582, đội tàu Vương quốc Anh đó có tổng sức chở 68.000 tấn, và huy động khoảng 16.000 thủy thủ. Được hạ thủy vào năm 2017, tàu conainer OOCL Hong Kong chỉ cần 22 thuyền viên có thể vận chuyển 200.000 tấn. Đúng vậy, những con tàu du lịch với hàng trăm du khách, và hàng không đông đúc đã đóng một vai trò quan trọng trong sự lây lan của dịch Covid-19. Nhưng khách du lịch không phải là yếu tố cần thiết để giao thương. Khách du lịch cũng có thể ở nhà, và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp làm việc trên Zoom, trong khi tàu ma tự động và tàu tự hành giúp nền kinh tế toàn cầu vận hành. Tự động hóa và phi vật chất hóa đã có tác động sâu sắc hơn đến các dịch vụ.

Vào năm 1918, không thể tưởng tượng được rằng các văn phòng, trường học, tòa án hoặc nhà thờ có thể tiếp tục hoạt động trong thời gian giãn cách xã hội do dịch bệnh. Tuy nhiên, nếu học sinh và giáo viên vẫn tập trung trong nhà của họ, bạn sẽ tổ chức lớp học như thế nào?

Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới – thế giới thực và thế giới ảo.

Hôm nay, chúng biết câu giải đáp. Làm việc từ xa có nhiều mặt hạn chế, đầu tiên là những ảnh hưởng tâm lý rất nghiêm trọng. Nó cũng làm nảy sinh những vấn đề trước đây khó tưởng tượng, như luật sư biến thành mèo trước tòa (trong một phiên điều trần hội nghị truyền hình ở Taxas, Hoa Kỳ, một luật sư đã kích hoạt nhầm bộ lọc “mèo con” trên Zoom). Nhưng thực tế đơn giản là nó có thể xảy ra đã không thể tin được.

Vào năm 2018, loài người chỉ sinh sống trong thế giới thực, và khi một loại virus cúm chết người hoành hành khắp thế giới, nhân loại không còn nơi nào để đi. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới – thế giới thực và thế giới ảo. Khi Virs corona bắt đầu vân du đó đây trong thế giới thực, nhiều người đã chuyển phần lớn cuộc sống của họ sang thế giới ảo, nơi virus không thể theo dõi họ.  

Tất nhên, chúng ta là những sinh vật bằng xương bằng thịt và không phải mọi thứ đều có thể phi vật chất hóa. Năm Covid-19 đã nêu bật vai trò ưu tiên của nhiều nghề với mức lương thấp trong việc vận hành đúng đắn của nền văn minh: y tá, người thu gom rác, tài xế xe tải, thu ngân, nhân viên giao hàng. Người ta thường nói rằng, chỉ có ba bữa cơm mới tách biệt được nền văn minh khỏi sự man rợ.

Vào năm 2020, chính những người giao hàng đã giúp nền văn minh có thể tồn tại. Họ đã giúp trở thành cứu cánh của chúng ta với thế giới thực.

Khi nhân loại tự động hóa và số hóa bản thân, đưa hoạt động kinh doanh của mình lên mạng, chúng ta đang phải đối mặt với những mối nguy hiểm mới. Một trong những điều chú ý nhất của năm Covid-19 là Internet đã luôn bị tắt nghẽn do quá tải. Nếu bạn đột ngột tăng lưu lượng truy cập trên một cây cầu trên thế giới thực, bạn có thể bị tắc đường hoặc thậm chí sập cầu.  

Vào năm 2020, các trường học, văn phòng và nhà thờ đã sử dụng Internet gần như chỉ sau một đêm, và Inernet vẫn vững chắc. Chúng tôi không dành thời gian để nghĩ về nó, nhưng chúng tôi nên làm.

Kể từ năm 2020, chúng ta biết rằng, cuộc sống vẫn có thể tiếp diễn ngay cả khi một quốc gia bị hạn chế về mặt thể chất. Bây giờ hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra, nếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta không thành công. Công nghệ thông tin đã giúp chúng ta kháng cự tốt hơn với các loại Virus sinh học, nhưng cũng dễ bị tấn công bởi phần mềm độc hại, và không gian mạng hơn nhiều. Mọi người thường tự hỏi Covid-19 tiếp theo sẽ là gì. Đặc cược an toàn rằng, đây sẽ là một cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta. Phải mất vài tháng, Virus corona mới lan ra khắp thế giới, và lây nhiễm cho hàng triệu người. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta có thể sụp đổ trong một ngày. Và nếu các trường học, và văn phòng có thể sử dụng Internet nhanh chóng, bạn nghĩ sẽ mất bao lâu để chuyển từ email sang thư bưu điện? Có chuyện vậy sao?

Khoa học không thay thế Chính trị

Năm Covid-19 nêu bật một giới hạn khác, thậm chí đang chú ý hơn, đối với sức mạnh công nghệ, và khoa học của chúng ta. Khoa học không thể thay thế Chính trị. Khi đưa ra các quyết định Chính trị, chúng ta phải tính đến vô số lợi ích và giá trị, và vì không có phương pháp Khoa học nào để xác định lợi ích giá trị nào, nên được ưu tiên hơn những lợi ích và giá trị khác, và không có phương pháp Khoa học để quyết định làm điều gì. Vì vậy, khi chúng ta quyết định áp đặt biện pháp việc khóa chặt sinh hoạt xã hội, chưa đủ để đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ khống chế được Covid-19, nếu chúng ta không áp đặt biện pháp việc khóa chặt sinh hoạt xã hội?” Chúng ta cũng phải đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị trầm cảm nếu chúng ta áp đặt sự việc khóa chặt sinh hoạt xã hội? Bao nhiêu người sẽ áp dụng thói quen xấu trong ăn uống? Bao nhiêu người sẽ nghỉ học, hoặc mất việc làm? Bao nhiêu phụ nữ sẽ bị đánh đập, hoặc bị giết chết bởi người bạn đời của họ?”. Ngay cả khi tất cả dữ liệu chúng ta có là chính xác và đáng tin cậy, chúng ta nên luôn đặt câu hỏi: “Điều gì quan trọng? Ai quyết định điều gì nên tính?. Làm thế nào để chúng ta cân bằng các con số?”. Đó là công việc của các Chính trị gia hơn là các nhà Khoa học. Các Chính trị gia phải cân nhắc các khía cạnh y tế, kinh tế và xã hội, và đưa ra các quyết sách một cách chiến lược toàn diện. Tương tựa như vậy, các kỹ sư đang tạo ra các nền tảng kỹ thuật số mới cho phép chúng ta tiếp tục các hoạt động của mình trong quá trình ngăn chặn và các công cụ giám sát mới, giúp chúng ta phá vỡ các chuỗi ô nhiễm. Nhưng phi vật chất hóa và giám sát khiến quyền riêng tư của chúng ta gặp rủi ro và mở đường cho sự xuất hiện của các chế độ độc tài kiểu mới. Năm 2020 vừa hợp pháp hóa vừa tầm thường hóa việc giám sát hàng loạt.

Độc quyền về dữ liệu là một chế độ độc tài được đảm bảo

Chúng ta phải chiến đấu chống lại dịch bệnh này, nhưng cuộc chiến này có đáng để chúng ta hy sinh tự do trong quá trình này không? Các Chính trị gia, chứ không phải các Kỹ sư, phụ thuộc vào sự cân bằng phù hợp giữa sự giám sát cần thiết, và một cơn ác mộng lạc hậu. Ba quy tắc cơ bản có thể bảo vệ chúng ta một cách hiệu quả trước các hành vi chỉ trích trên mạng xã hội, ngay cả trong thời kỳ đại dịch. Đầu tiên, bất cứ khi nào bạn thu thập dữ liệu về mọi người, bao gồm cả những gì đang diễn ra trong cơ thể họ, thì dữ liệu đó nên được sử dụng để giúp những người đó, không phải để thao túng, theo dõi hoặc làm hại họ. Bác sĩ đa khoa của tôi biết những điều rất riêng về tôi. Tôi chấp nhận nó, vì tôi tin tưởng vị Bác sĩ này sẽ sử dụng nó vì lợi ích của tôi. Người nói chung không nên bán thông tin này cho một doanh nghiệp hoặc đảng phái chính trị. Điều tương tự cũng nên áp dụng cho bất kỳ “cơ quan giám sát đại dịch” nào xuất hiện. Thứ hai, việc giám sát phải là đường hai chiều.Nếu nó chỉ từ bên trên, nó là cánh cửa mở ra cho chế độ độc tài. Nói cách khác, khi chúng ta tăng cường giám sát các cá nhân, đồng thời chúng ta phải tăng cường điều đó đối với Nhà nước, và các công ty đa quốc gia lớn. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hiện nay, các Chính phủ đang tung ra những khoản tiền khổng lồ. Việc phân phối nguồn vốn này cần được minh bạch hơn. Với tư cách là một công dân, tôi muốn biết ai nhận được nguồn tài trợ nào, và ai là người quyết định số tiền đó sẽ đi đâu. Tôi muốn đảm bảo rằng tiền sẽ được chuyển đến các công ty thực sự cần nó hơn là cho một công ty đa quốc gia, mà các nhà lãnh đạo kết bạn với một Bộ trưởng. Nếu Chính phủ tuyên bố rằng, quá phức tạp để đặt một hệ thống kiểm soát như vậy giữa làn sóng đại dịch, đừng tin vào điều này. Mặc dù không quá phức tạp để giám sát những gì bạn làm, cũng không quá phức tạp để giám sát những gì Chính phủ đang làm. Thứ ba, không bao giờ cho phép tập trung quá lớn dữ liệu trong cùng một bàn tay. Cả trong và sau đại dịch. Độc quyền về dữ liệu được đảm bảo là độc tài. Nếu chúng ta thu thập dữ liệu sinh trắc học cá nhân để ngăn chặn đại dịch, thì việc đó phải được thực hiện bởi một cơ quan y tế độc lập, chứ không phải cảnh sát. Và dữ liệu thu thập được phải được giữ biệt lập với kho dữ liệu của các cơ quan Chính phủ, và các công ty đa quốc gia. Tất nhiên, điều này sẽ dẫn đến sự trùng lập và mất hiệu quả. Nhưng sự kém hiệu quả không phải là một lỗi. Bạn muốn ngăn chặn sự ra đời của một chế độ độc tài kỹ thuật số? Đảm bảo rằng bạn giữ mọi thứ không hiệu quả ở mức tối thiểu.

Thiếu kế hoạch toàn cầu để kiểm soát virus

Sức mạnh khoa học công nghệ của năm 2020 đã thất bại trong việc giải quyết khủng hoảng y tế. Họ đã biến một tai họa thành một tình thế tiến thoái lưỡng nan về chính trị. Khi Cái chết Đen giết hàng triệu người, không ai mong đợi nhiều từ các vị Vua và Hoàng đế. Khoảng một phần ba công dân Vương quốc Anh đã chết trong làn sóng đại dịch đầu tiên, nhưng Đức Vua Vương Quốc  Anh Edward III ( 1312-1377) vẫn giữ được ngai vàng của mình. Bởi không cho các vị chủ quyền để ngăn chặn đại dịch, nên không ai ném đá họ. Tuy nhiên, ngày nay, nhân loại đã có những công cụ khoa học cho phép kiềm chế dịch Covid-19. Một số quốc gia, từ Việt Nam cho đến Australia, đã chứng minh rằng, ngay cả khi không có Vaccine, những công cụ sẵn có vẫn có thể ngăn chặn dịch bệnh.

Tuy nhiên, những công cụ này có chi phí kinh tế và xã hội đáng kể. Chúng ta có thể đánh bại Virus, nhưng chúng ta không chắc mình muốn trả giá bằng chiến thắng. Đây là lý do tại sao những tiến bộ khoa học đặt lên vai các Chính trị gia một trách nhiệm to lớn. Đáng buồn thay, nhiều người đã không sống đúng với trách nhiệm này. Ví dụ, Tổng thống theo Chủ nghĩa Dân túy của Hoa Kỳ và Brazil đã hạ thấp sự nguy hiểm, từ chối lắng nghe các chuyên gia, và thay vào đó rao bán các thuyết âm mưu. Thay vì đề xuất một kế hoạch hành động liên bang xứng đáng với tên gọi, họ đã đánh lừa các sáng kiến của các thành phố và tiểu bang để ngăn chặn dịch bệnh. Sự bất cẩn và vô trách nhiệm của Chính quyền Donald Trump và Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro đã dẫn đến hàng trăm nghìn cái chết có thể phòng tránh được. Tại Vương quốc Anh, ban đầu, dường như Chính phủ quan tâm đến Brexit hơn là về Covid-19. Bất chấp tất cả các biện pháp cô lập, Chính phủ Boris Johnson đã không bảo vệ được Vương quốc Anh trước thứ duy nhất thực sự quan trọng: Virus. Israel, một quốc gia có chủ quyền tại khu vực Trung Đông, quê hương của tôi, cũng đã chịu sự quản lý Chính trị yếu kém. Giống như Đài Loan, New Zealand và Cộng hoà Síp, Israel trên thực tế là một “quốc đảo”, với biên giới khép kín và chỉ có một cửa ngõ, Sân bay Ben Gurion. Tuy nhiên, vào đỉnh điểm của đại dịch, Thủ tướng Chính phủ Israel Benjamin Netanyahu đã cho phép du khách quá cảnh qua sân bay mà không có kiểm dịch hoặc kiểm tra thích hợp, và không thực hiện các biện pháp ngăn chặn của riêng mình.

Sau đó, Nhà nước Israel và Vương quốc Anh đã đi đầu trong việc triển khai Vaccine, nhưng những đánh giá sai lầm ban đầu của họ đã phải trả giá đắc. Tại Vương quốc Anh, đại dịch Covid-19 đã cướp đi 120.000 sinh mạng, khiến nó trở thành tỷ lệ tử vong thứ 6 trên toàn thế giới. Israel đứng thứ 7 về tỷ lệ các trường hợp được xác nhận, và để hạn chế thiệt hại đã phải đàm phán một thỏa thuận “dữ liệu Vaccine” với tập đoàn Pfzer của Hoa Kỳ: Pfzer đồng ý cung cấp cho Israel đủ Vaccine cho toàn bộ người dân, đổi lại dữ liệu khổng lồ, làm dấy lên lo ngại về quyền riêng tư và tập trung dữ liệu, đồng thời chứng minh rằng, dữ liệu công dân là một trong những tài sản quý giá nhất của bang ngày nay. Mặc dù một số quốc gia đã hoạt động tốt hơn nhiều so với những quốc gia khác, nhưng nhìn chung nhân loại đã thất bại trong việc ngăn chặn đại dịch, hoặc phát triển một kế hoạch toàn cầu để kiểm soát Virus.

Vài tháng đầu năm 2020 khiến chúng tôi có cảm giác như đang chứng kiến một vụ tai nạn trong chuyển động chậm. Các phương tiện liên lạc hiện đại đã cho phép mọi người trên khắp thế giới xem các cảnh quay trong thời gian thực, đầu tiên từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, sau đó sang Ý, sau đó từ một số quốc gia ngày càng tăng, nhưng chưa có sáng kiến quốc tế nào chứng kiến ngày ngăn chặn thảm họa quét qua hành tinh. . . Nhưng các công cụ ở đó thường thiếu sự khôn ngoan về Chính trị.

Đối thủ về nguồn cung cấp y tế

Một trong những lý do dẫn đến sự khác biệt giữa năng lực của các nhà Khoa học, và sự thất bại của các Chính trị gia là do bên trước hợp tác quốc tế,  trong khi bên sau nói chung là trong một cuộc chiến cãi vã. Làm việc trọng một môi trường đầy bất ổn và căng thẳng, các nhà Khoa học trên khắp thế giới đã tự do trao đổi thông tin, dựa trên những phát hiện và quan sát chung với nhau. Các công việc quan trọng thường được thực hiện bởi các đội ngũ quốc tế. Ví dụ, một nghiên cứu cụ thể chứng minh tính hiệu quả của các biện pháp ngăn chặn đã được đồng thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ 9 tổ chức, 1 ở Vương quốc Anh, 3 ở Trung Quốc và 5 tại Hoa Kỳ. Ngược lại, các Chính trị gia đã thất bại trong việc tạo dựng một liên minh quốc tế chống lại Virus, hoặc đồng ý về một kế hoạch hành động toàn cầu. Hai siêu cường quốc Hoa Kỳ và Trung Quốc thống trị, đã cáo buộc nhau giữ thông tin quan trọng cho riêng mình, phát tán thông tin sai lệch và thuyết âm mưu, thậm chí cố tình phát tán Virus. Nhiều quốc gia khác đã báo cáo làm sai lệch hoặc giấu thông tin về diễn biến của đại dịch Covid-19.

“Chủ nghĩa Dân tộc Vaccine” tạo ra một kiểu bất bình đẳng mới

Sự thiếu hợp tác quốc tế không chỉ được minh họa bởi những cuộc chiến thông tin này, thậm chí còn nhiều hơn bởi sự cạnh tranh về nguồn cung cấp y tế. Mặc dù có nhiều ví dụ về sự hợp tác và sự hào phóng, nhưng chưa có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện để tập hợp các nguồn lực sẵn có, hợp lý hóa sản xuất toàn cầu, và đảm bảo phân phối công bằng các nguồn dự trữ. Đặc biệt, “Chủ nghĩa Dân tộc Vaccine” đang tạo ra một loại bất bình đẳng mới giữa các quốc gia không có khả năng tiêm chủng. Thật không may khi nhiều người không hiểu một điều đơn giản về đại dịch này: Chừng nào Virus còn tiếp tục lây lan, thì không quốc gia nào thực sự miễn dịch. Hãy tưởng tượng nếu Nhà nước Israel hoặc Vương quốc Anh thành công trong việc tiêu diệt Virus trong biên giới của mình, nhưng nó vẫn tiếp tục lây nhiễm trong hàng trăm triệu người dân ở Ấn Độ, Brazil và Nam Phi.

Một đột biến mới ở một thành phố xa xôi ở Brazil có thể khiến Vaccine mất tác dụng, và gây ra một làn sóng ô nhiễm mới. Như hiện tại, có rất ít khả năng rằng những lời kêu gọi long vị tha sẽ lớn hơn lợi ích quốc gia. nhưng, như hiện tại, hợp tác quốc tế không phải là vấn đề của long vị tha. Nó rất cần thiết cho việc bảo vệ lợi ích quốc gia.

Đầu tư hơn vào các dịch vụ y tế công cộng

Cuộc tranh cãi về các sự kiện của năm 2020 sẽ không kết thúc trong nhiều năm. Nhưng các Chính trị gia của tất cả các sọc nên đồng ý về ít nhất ba bài học từ cuộc khủng hoảng này. Trước tiên, chúng ta cần bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của mình. Chúng đã từng là cứu cánh của chúng ta trong đại dịch này, nhưng chúng có thể sớm trở thành nguồn gốc của một thảm họa, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Thứ hai, mỗi quốc gia nên đầu tư nhiều hơn vào các dịch vụ y tế công cộng của mình. Có vẻ như không cần phải nói, nhưng các Chính trị gia và cử tri đôi khi bỏ qua lời góp ý này, đây là điều hiển nhiên. Thứ ba, một hệ thống quốc tế để giám sát và ngăn chặn các đại dịch xứng đáng với tên gọi cần được thiết lập. Trong cuộc chiến lâu đời giữa con người và mầm bệnh, chiến tuyến đi qua cơ thể của mỗi chúng ta. Hãy để dòng này nhường chỗ cho một nơi nào đó trên hành tinh, và tất cả chúng ta đều đang gặp nguy hiểm. Ngay cả những người may mắn nhất ở các nước phát triển nhất, cũng có lợi ích cá nhân trong việc bảo vệ những người nghèo nhất ở các quốc gia kém phát triển.

Nếu một loại Virus mới truyền từ dơi sang người ở một ngôi làng nghèo, một nơi nào đó trong khu rừng hẻo lánh, nó có thể lang thang khắp Phố Wall vài ngày sau đó. Một phiên bản sơ đồ của thiết bị chống đại dịch toàn cầu này đã tồn tại dưới hình thức Tổ chức Y tế thế giới và một số cơ quan khác. Nhưng ngân sách của nó không đủ và thiết bị này hầu như không có trọng lượng chính trị. Nó nên được một cung cấp, và các nguồn lực của nó được củng cố rất rõ ràng để nó không phụ thuộc hoàn toàn vào ý thích bất chợt của các Chính trị gia quan tâm đến lợi ích của họ. Như tôi nói trước đây, tôi không tin rằng các chuyên gia không được lựa chọn sẽ đưa ra các quyết định chiến lược. Họ phải là lĩnh vực độc quyền của các Chính trị gia. Ngược lại, một cơ quan y tế toàn cầu độc lập, sẽ là một nền tảng lý tưởng để tập trung dữ liệu y tế, quản lý các mối đe dọa tiềm ẩn, báo động, hướng dẫn nghiên cứu và phát triển. Nhiều người lo sợ rằng Covid-19 có thể đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng đại dịch. Tuy nhiên, nếu chúng ta rút ra những bài học đã đề cập ở trên từ cuộc khủng hoảng này, thì cú sốc của Covid-19, ngược lại, có thể dẫn đến một đại dịch hiếm gặp.

Nhân loại không thể ngăn chặn sự xuất hiện của các mầm bệnh mới. Đó là một quá trình Tiến hóa tự nhiên, bắt đầu từ hàng tỷ năm trước và sẽ tiếp tục. Nhưng ngày nay nhân loại đã có kiến thức và các công cụ để ngăn chặn mầm bệnh mới lây lan và gây ra đại dịch. Nếu Covid-19 tiếp tục lây lan vào năm 2021 và cướp đi hàng triệu mạng người, hoặc nếu một đại dịch nguy hiểm hơn nữa xảy ra với nhân loại vào năm 2030, nó sẽ không phải là một thảm họa không thể kiểm soát, cũng không phải là sự trừng phạt của thần thánh. Đó sẽ là một thất bại về con người, và chính xác hơn là một thất bại về chính trị.

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: L'Express)

 



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2021(Xem: 5406)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6820)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4219)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 8711)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5370)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 4981)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5592)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6112)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5137)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 4872)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]