Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại Sao Cuộc Đời Có Nhiều Người Nghèo Khổ

02/08/202116:15(Xem: 5607)
Tại Sao Cuộc Đời Có Nhiều Người Nghèo Khổ



ngheo kho

TẠI SAO CUỘC ĐỜI
CÓ NHIỀU NGƯỜI NGHÈO KHỔ ?



Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” !

Khoa học ngày nay đã trải nghiệm và chứng minh rằng: "Mỗi động lực gây ra đều tạo một phản lực tương đồng và ngược chiều, động lực và phản lực không bao giờ tách rời nhau". Nhân quả là quy luật đã sẵn có trong vũ trụ, nên có tính bất biến và rất nghiêm minh, gieo nhân từ ba nghiệp thân, khẩu, ý rồi, khi đủ duyên phải nhận quả, trong hiện đời hoặc nhiều kiếp về sau, không thể chạy trốn vào đâu được. Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy rằng:

"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”.

Về luân hồi, cũng là điều tự nhiên thường diễn tiến hằng ngày trong vũ trụ, nước bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh đông lại và rơi xuống thành mưa, vào ao, hồ, sông, biển, thành nước, băng, tuyết, nước đá… rồi lại gặp nóng bốc hơi. Mầm từ đất lớn lên thành cây, cho ra lá, hoa, trái, rồi rụng xuống thành phân, bón tốt cho cây và tiếp tục như vậy. Trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, vũ trụ cũng phải trải qua bốn thời kỳ: sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ, hoại, không. Con người và mọi loài chúng sanh cũng vậy, khi thần thức gặp tinh cha huyết mẹ, thành bào thai, lớn lên thành người, rồi sinh, già, bệnh, chết, xác thân trả về cho cát bụi, nhưng phần thần thức thì còn mãi và tùy theo nghiệp đã gieo, mà vào cõi thiện lành: trời, người, atula, hay ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng giống như nước chỉ thay đỗi tướng trạng, xoay vần từ chỗ này đến chỗ khác, từ hình thức này đến hình thức khác, chứ không mất vào đâu cả, đó là luân hồi.

Con người do si mê “chấp ngã”, cho ta là nhất, là trung tâm của vũ trụ, mọi người phải phục tùng và dưới sự điều khiển, chi phối của ta, nên rồi để bảo tồn “bản ngã” đó, phải tranh đấu, triệt tiêu những gì đe dọa nó, rồi tha hồ thụ hưởng, có thể cướp đoạt hay đe dọa, giết hại mọi loài, để phục vụ cho sự “hưởng thụ”, mặc cho ai, tan thương, mất mát, khổ đau…oan gia, trái chủ, oán hận ngút trời. Nhân gây khổ đau, như vậy, thì quả phải trả, cũng khổ đau tương tự mà thôi!

Viên Thành đã hiểu rõ thêm, ngộ ra được và chỉ cho nhiều người hiểu về “tại sao con người, nhiều nghèo khổ”? Nhờ một chuyến đi, quan sát thực tế, trải nghiệm từ lúc khi còn ở Việt Nam, đặc biệt trong một chuyến thăm quê và bà con, bạn bè, trở về lại thành phố, khi bước xuống xe, được nhiều người chạy đến mời gọi, trong đó có một chú “xe đạp ôm”. Dự định tìm gọi taxi hoặc xe “Honda ôm” đi cho nhanh, nhưng chú “xe đạp ôm” này quá năn nỉ, nói rằng từ sáng đến giờ chưa chạy được cuốc nào, nếu ai cũng chê mà không chịu đi xe chú, thì sẽ đói cả nhà. Nghe hoàn cảnh quá thảm, cũng không có gì phải vội, mặc dầu có chậm và khó ngồi một chút, nhưng rồi cũng sẽ về tới chùa, hơn nữa cũng muốn giúp chú và có dịp đi chậm lại, để ngắm rõ cảnh thành phố sinh hoạt về đêm, nên Viên Thành chịu khó cho chú chở “cà rịch cà tang” qua nhiều ngả đường trên chiếc “xe đạp ôm” để về chùa.

Trên đoạn đường đi, chú bằng tâm sự và hỏi: “ Sao cuộc đời này nhiều người nghèo khó và khổ đau quá vậy Thầy ? Viên Thành bèn hỏi lại chú: “Khi nảy giờ, chú chở tôi, thấy chỗ nào là đông người nhất” ? Chú bèn chân thật trả lời: “Chỗ quán nhậu, làng nướng, nơi ăn chơi là đông đảo nhất, kẹt xe ngoài đường luôn, vì nhiều người ghé vô”. Tôi bèn hỏi tiếp: “vậy mấy chỗ chùa, nhà thờ, nơi tu tập, tạo phước đức có đông được như vậy không ?” Chú lại buồn bả trả lời: “mấy nơi tu hành tạo phước lành, thì le que vài người đến thôi”!

ngheo kho 2

Từ đây Viên Thành mới giải thích cho chú biết rằng: “Đó cũng là câu trả lời cụ thể và rõ ràng nhất, cho câu hỏi của chú. Nhiều người không tin và không sợ “nhân quả, luân hồi” nên tha hồ thụ hưởng và vay nợ để thỏa mãn danh, lợi, tình. Những nơi tạo tội, thị phi, tiêu phí phước đức thì rất đông người đến, bất kể tội lỗi hay sự tốn kém, có thể sẵn sàng vay nợ…nhiều người hoang phí như vậy, khi hết phước và nợ nần chồng chất, thì nghèo khó là lẽ đương nhiên. Còn những người siêng năng đi chùa, tạo phước đức, biết sẻ chia, thì quá ít. Chúng ta đang trôi trong dòng sông đời, ít ai biết cố gắng (tu hành) chịu khó cực nhọc lội vào bờ, để lên được bờ giải thoát, trong khi đó đa số buông xuôi theo dòng đời, lòng tham thì vô đáy, tha hồ thụ hưởng, mặc cho sóng gió nổi, trôi, vùi, dập, thì cuối cùng là chìm sâu xuống đáy, hoặc trôi vào biển khổ! Từ đó mới đúng với câu: “Thiên đường rộng cửa không ai đến, Địa ngục cài then chen lấn vào”, hay “Hoa thơm ong bướm vài con lượn, Phân thối ruồi bu nhặng đông vầy”.  Nên người giàu ít hơn người nghèo khó là vậy” ! Chú trầm ngâm suy nghĩ và gục đầu tâm đắc, đúng là vậy !

Tiện đây Viên Thành hỏi thêm về hoàn cảnh và sự sống của chú: “hằng ngày chú chạy xe được bao nhiêu tiền và rồi sẽ làm gì?” Chú cũng chân thành trả lời: “thưa Thầy, có bữa đắc, chạy được trăm ngoài ngàn (khoảng 10 Úc kim), có bữa ế vài chục ngàn thôi, có lúc cũng phải về không, đành chịu đói cả nhà. Khi có tiền thường tấp vô mấy chỗ “nhậu” làm lai rai vài cốc (ly), vui với chúng bạn và giải nghễ, sau một ngày mệt nhọc, có bữa hết sạch tiền phải ký hoặc mượn nợ. Nhân đây Viên Thành cũng muốn cho chú hiểu rõ thêm về những quan điểm sai lầm, của chú và rất nhiều người, rằng: “Tưởng rằng cuộc đời và xác thân này là trường tồn, nên mặc sức o bế, nhậu hoặc ăn uống những loại đặc sản đắc tiền, đi những xe sang, ở những nhà nguy nga, tưởng là bồi dưỡng cho cơ thể, là vinh dự với đời, nhưng đâu biết rằng, sẽ tốn kém và phá hoại dần dần sức khỏe, vì phải làm lụng thật nhiều, phải “còng lưng cuốc cổ” cả ngày, thì mới có tiền để trang trải, cho một phút vui chơi, hay thoải mái nhứt thời, đôi khi đưa những thứ độc hại vào cơ thể, khiến bệnh hoạn và dẫn đến hoạnh tử chết ngặt, chết yểu“bệnh từ miệng vào” là đây”.

Khi được hỏi điều gì gây ngạc nhiên nhất cho nhân loại, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: "Con người. Chúng ta hy sinh sức khỏe để kiếm tiền. Sau đó lại dùng tiền để phục hồi sức khỏe. Và rồi, chúng ta lo lắng cho tương lai và chán ghét hiện tại, chúng ta sống như thể sẽ không bao giờ chết và sau đó lại chết như chưa từng sống thực sự".

Trong kinh Bát Đại Nhân Giác Đức Phật có dạy: “ Đa dục vi khổ” (…Ham muốn nhiều lụy khổ càng sâu, nhọc nhằn sinh tử bấy lâu, đều do tham dục dẫn đầu gây nên…” Tất cả rồi cũng bỏ lại cho đời, khi chết đi chỉ mang theo được tội phước mà thôi ! Đó là thực tế của đa số cuộc sống con người chúng ta. Chú “xe đạp ôm” nghe được, cũng trầm ngâm suy nghiệm và từ từ hiểu ra: “Thầy nói đúng quá, con và nhiều người, từ bấy lâu nay đều như vậy, nên nghèo khổ là phải rồi, thôi hôm nay con chạy cuốc xe này cho Thầy, có tiền mang đủ về gia đình được no, là hạnh phúc rồi, điều đặc biệt là qua sự trao đỗi giữa con và Thầy hôm nay, đúng là con nghe được một bài Pháp vô giá, đã thức tĩnh cho con, nguyện là ong mang mật ngọt cho đời, chứ không thề là ruồi được, từ nay sẽ không còn cái quan niệm sai lầm, vì chút “khoái khẩu” hay “vinh dự hảo huyền” hoặc “ham muốn quá nhiều” mà nhậu nhẹt, đua đòi rồi hành hạ, đày đọa tấm thân nầy, để không có thời gian hay cơ hội mang thân này tu tập tạo phước điền”!

Luật nhân quả, như tấm gương soi, rất công minh, gieo nhân rồi, không chóng thì chầy, cũng phải gặt quả, gieo gió ắt gặt bão, không thể bay lên trời, hay chui rúc dưới hang sâu mà có thể chạy trốn khỏi. Quy tắc của Luật nhân quả rất chặt chẽ, luôn chi phối hết mọi việc, vì bất cứ tư tưởng, lời nói hay hành động nào tạo ra đều có những phản lực tác động lại.

Do không tin nhân quả, nên nhiều người phạm nhiều sai lầm, nghĩ rằng chết rồi sẽ hết, không có luân hồi quả báo, nên sống thỏa thích, có những hành động độc ác, xấu xa, từ gian tham, trộm cắp, vơ vét, lợi dụng lòng tốt của người, mà tha hồ thọ nhận (tạo nợ), đến âm mưu hãm hại lẫn nhau, rồi đổ công sức, tài sản đầu tư vào những công trình “có một không hai” nghĩ rằng các hành động này là khôn, là vinh dự với đời, sẽ mang lại được hạnh phúc bền vững cho họ. Nhưng đâu hiểu rằng đời là vô thường, ta đâu “lột da sống đời” mà hưởng, trong khi những hành động như thế chỉ mang lại sự thỏa mãn trước mắt, những khoái cảm nhất thời, nhưng sẽ là ác nghiệp gây khổ đau lâu dài về sau này, nợ càng lâu thì lãi càng cao, mỗi tác nhân đều phải gánh chịu những hậu quả mà họ đã gây ra.

Trong kinh Di Giáo, Phật đã dạy: “Người biết sống tri túc, tuy nằm trên đất cũng an lạc, người không biết sống tri túc, tuy ở trên các cõi trời nhưng lòng cũng không an ổn”. Tri túc là biết đủ, biết an trú vào những gì mà mình hiện có, đó là chân hạnh phúc, không vọng tưởng mong cầu. Một đời sống tri túc đúng nghĩa là một đời sống an lạc, thanh cao vì không còn bị khổ đau do sự chi phối của dục vọng.

Phật dạy: “Tất cả đều do tâm tạo” do tâm “chấp ngã” mà tham sân si tăng trưởng. Thế nên, chỉ có thay đổi từ gốc rễ, tu sao cho hạ dần “bản ngã”, “…tự thấy mình nhỏ thôi, việc tu còn kém cỏi…” sống đời vị tha, quyết nỗ lực lội vào bờ (tu hành). Qua Covid-19, thấm thía được “đời là khổ và vô thường” nên vui lòng “ở yên một chỗ” sống đơn giản và chậm lại, siêng năng “bố thí” tức là đang gieo “nhân giàu”, tôn trọng, hài hòa với mọi người, bảo vệ thiên nhiên, biết quan tâm chia sẻ với nhau, để xã hội ngày một tốt hơn, thoát nghèo khó, được giàu sang sung sướng. Luôn nhớ cho rằng: “Vui trong tham dục, vui rồi khổ, Khổ để tu hành, khổ hóa vui…”.Tất cả tự mình lựa chọn, chứ không ai áp đặc. Muốn có lúa ăn, phải cực nhọc lao động, muốn có phước đức, phải nỗ lực tu hành, là vậy !


Chùa Pháp Hoa – Nam Úc, những ngày biến thể Covid-19  hoành hành khốc liệt tại quê nhà và khắp nơi, 01/08/2021

Thích Viên Thành  


facebook-1
***
youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 5020)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4512)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7555)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6176)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12153)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5352)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]