Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện Tích: Thân Hòa Đồng Trèo

26/07/202110:51(Xem: 5820)
Truyện Tích: Thân Hòa Đồng Trèo


treo cay

Thân Hòa Đồng Trèo 

Trần Thị Nhật Hưng



Buổi trưa hè miền Trung, cái nắng nóng làm như ông Trời gôm hết lửa đổ xuống trần gian thiêu rụi vạn vật, không ai chịu nổi. Tất cả đều rúc hết vào nhà, đóng cửa trốn ông Trời, tranh thủ thời gian đó nghỉ ngơi. Hầu hết tìm giấc ngủ trưa để quên đi thời tiết khắc nghiệt. Chỉ riêng bốn đứa...tứ tặc gồm Nam, Thanh Du, Hiền và Bích Nga lang thang trên đường phố. Chúng la cà từ Ngã Tư Chính trung tâm phố đi lần về trường trung học Hùng Vương chỉ cách đó không xa, khoảng 15 phút đi bộ, nơi bốn đứa cùng học chung lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) dù Thanh Du và Hiền 12 tuổi đều hơn Nam và Bích Nga một tuổi.

  Biết Nam và Thanh Du là đứa hay tinh nghịch hiếu động, ít chịu ở nhà dù trời nắng nóng, ông bà Khang, thân sinh hai đứa thường bày ra việc để cột chân hai đứa ở nhà nếu không chịu ngủ trưa.

  Thanh Du có nhiệm vụ nhổ tóc sâu cho mẹ trên gác. Tóc sâu còn gọi là tóc ngứa, loại tóc bạc ngắn độ một đốt ngón tay ẩn trong mớ tóc đen dày cộm hay làm cho ngứa. Còn Nam nhổ tóc sâu cho bố dưới nhà.

    Ông Khang nằm soải mình trên một chiếc di văng nhỏ đặt đầu trên chiếc gối cao. Đối diện ông, trên chiếc ghế đẩu thấp, Nam ngồi chúi mặt vạch từng lớp tóc trên đầu ông tìm kiếm tóc sâu như cảnh sát vạch cây lá lùng quân gian. Những sợi tóc sâu êm ái rời khỏi đầu qua chiếc nhíp nhỏ, đã lắm, nhanh chóng ru ông Khang vào giấc nồng. Chỉ dăm mười phút sau ông Khang ngáy khò khò, thả hồn vào giấc mộng không biết trời trăng gì nữa. Đoán ông đã ngủ say, Nam rón rén dứng dậy, sau khi gom tất cả những cọng tóc sâu vừa nhổ, cả những sợi tóc bạc dài Nam ranh mãnh bứt ra thành nhiều sợi ngắn làm như...thu hoạch nhiều chiến công để chứng tỏ với ông Khang thành quả của mình, rồi Nam gói trong tờ giấy trắng xếp làm tư, đặt cái nhíp lên trên để bên đầu giường ông nằm. Xong đâu vào đấy, Nam mon men lên gác ra hiệu Thanh Du rút lui, cùng lúc bà Khang cũng say sưa trong mộng điệp tự lúc nào.

   Bốn đứa Nam, Du, Hiền, Bích Nga hẹn tụ họp nhau không khó. Vì nhà Hiền bên kia đường gần Ngã Tư Chính đối diện xeo xéo nhà Nam. Còn nhà Bích Nga bên này đường cách nhà Nam vài căn. Chúng chỉ cần lấp ló ho vài tiếng báo hiệu và ngoắc một cái là bốn đứa đã gặp nhau. 

    Lang thang giữa trời nắng nóng, thời tiết khắc nghiệt không làm chúng ngại, nhưng la cà mãi cũng chán, cuối cùng chúng dừng chân tại một cây trứng cá nằm một góc ngã tư đường, đồng thanh “Thân Hòa Đồng Trèo„ thoắt một cái bốn đứa trụ luôn trên cây trứng cá trước khách sạn Đồng Khánh của bà Xì Thố. 

   Bà Xì Thố là một người Tàu chính hiệu con nai vàng không lai chút nào cả. Sự hiện diện của bà tại Việt Nam và định cư tại miền Trung không ai rõ từ lúc nào. Mọi người đoán già đoán non, bà là hậu duệ của người Hán tộc thuộc nhà Minh chống đối Mãn Thanh rồi chạy qua Việt Nam lánh nạn để tránh sự truy lùng tiêu diệt của nhà Thanh. Và thiên hạ hay gọi những thành phần như bà là Minh Hương. Dù đã nhiều thế kỷ và đã sinh sống lâu năm tại Việt Nam, tổ tiên gia tộc bà vẫn giữ truyền thống cổ xưa để tỏ lòng trung thành với triều đại phong kiến cũ và lòng hoài cổ với nhà Minh thể hiện qua việc đàn bà con gái vẫn giữ tập tục bó chân chứng tỏ mình thuộc giới quí tộc thượng lưu và duy trì văn hóa người Hán. Do vậy, bà Xì Thố có đôi bàn chân bị bó nhỏ xíu.

   Cây trứng cá trụ trước khách sạn của bà Xì Thố ai trồng từ hồi nào không ai hay cũng không ai cần biết. Chỉ biết là hiện giờ nó cao lớn gần mái nhà, cành lá sum suê tỏa bóng râm mát rất dễ chịu giữa cái nắng nóng như đổ lửa của miền Trung.   

   Cây trứng cá luôn thu hút bọn trẻ con, không chỉ bởi bóng mát mà cây trứng cá còn cho chúng những quả ngon ngọt mềm mềm đỏ rực khi chín, hồng hồng khi ương ương. Trái trứng cá lớn cỡ viên bi, lúc còn sống màu xanh và cứng ngắt, bọn trẻ con thường dùng làm đạn luồn dây thun làm ná hay dùng ná thật bắn nhau.

IMG_0165.JPG

   Vắt vẻo trên cành cây trứng cá, bốn đứa như bốn con khỉ con, chuyền từ cành này sang cành kia để hái những quả trứng cá chín cho vào miệng. Chúng ăn ngon lành. Mạnh đứa nào tự kiếm cho mình những chiến lợi phẩm.Và khi trên cây chỉ còn những quả xanh không ăn được, mỗi đứa chọn cho mình một thân cành chắc chắn soải mình nghỉ ngơi. 

   Ngước mặt mông lung nhìn lên trời cao, xuyên qua những chiếc lá trứng cá nhỏ, từng đám mây trắng xóa lững lờ bay ngang trong tầm mắt của Nam. Bỗng Nam cất tiếng hỏi:

- Ê, tụi bây, đám mây kia bay hoài, bay mãi, nó bay về đâu, tụi bây biết không?

- Mày hỏi nó chứ sao hỏi tụi tao. Bích Nga trả lời.

- Tao đã hỏi nó nhiều lần, nhưng nó không thèm trả lời tao, nên tao mới hỏi tụi bây.

Tiếng của Hiền đáp:

- Nó bay về phương trời vô định!

- Vô định là đâu?

- Ngu nà. Vô định là không định. Không có chân trời! Thanh Du góp tiếng. Nam vẫn thắc mắc:

- Không lẽ nó cứ bay mãi bay hoài không biết mệt?

- Mệt chớ, nên đôi khi tao thấy nó dừng, đứng một chỗ nghỉ ngơi.

- Nghỉ ngơi? Nghỉ ngơi để xả hơi và đi ...toa lét hả?

- Ờ! Đúng rồi. Nó đi toa lét,...tè xuống trần mới thành mưa đó!

- Hèn gì!

- Nhưng mày ạ, sao có lúc tao thấy có những đám mây đen thui. Tại sao vậy?

- Thì những đám mây đó bay đến từ... Phi Châu thì nó phải đen thôi. Còn mây trắng đến từ nước Mỹ thì nó trắng.

- Còn đến từ Á Châu da vàng thì sao?

- Có những lúc mày cũng thấy mây hồng hồng vàng vàng nhất là buổi chiều đó.

   Câu chuyện vớ vẩn chỉ có thế mà bọn chúng ríu rít hằng giờ trên cành cây cứ như đàn chim non mải miết líu lo, không để ý cánh cửa khách sạn Đồng Khánh xịch mở rồi bà Xì Thố chân bước liêu xiêu như con robot chậm chạp tiến về cây trứng cá. Bà hóng mặt nhìn lên bọn trẻ, nói:

- Lày, tụi..pây..đám con..lít (nít) từ đâu..đến phá làng phá xóm...ha? 

   Tiếng của bà cất lên, âm hưởng giọng Tàu rặc dù bà sinh trưởng và sinh sống tại Việt Nam lâu năm. Đám bọn Nam nhìn xuống nhận ra bà Xì Thố, người mà hằng ngày đi học ngang qua, bọn chúng thường gặp bà ra vô lấp ló bên song cửa hoặc đôi khi bà ra quét sân nhà.

   Bà Xì Thố có vóc người nhỏ thó, tương xứng đôi bàn chân bị bó nhỏ xíu nhờ vậy bà có thể đi lại dễ dàng nhưng chỉ chậm thôi. Mái tóc hoa râm cắt bum bê úp gọn vào gáy. Phía trước bà còn cài chiếc băng đô bằng nhựa màu hồng vén gọn mái tóc lòa xòa trước trán. Bà mặc bộ đồ bộ vải sa teng bóng loáng màu hường nhạt, trông bà ra dáng Tàu rặc không pha chút nào cả. Nghe tiếng bà cất lên, bọn trẻ như đàn chim non giật mình nhưng không vỗ cánh bay đi, Nam nhanh nhẩu cất tiếng chào:

- Ngộ ái nị ha...!

 Bà Xì Thố nhăn mặt:

- Khôn..g ngộ, nị gì ở tâ..y (đây) hết ch.ơ.n (trơn) á. Tụi...pây ch.è.o..(trèo) xuống khô..n..g?

Nam giả giọng lơ lớ ngọng ngọng như của bà, đáp:

- T..ươ..ng..(đương) nhiên là khô..n..g!

- Không xuống té chết a!

- Chết ngộ chứ không chết nị à!

 Đứa khác tiếp lời:

- Mấy ngộ mình đồ..n (đồng) da sắt ha, có té chỉ pể nền nhà nị thôi ha...!

   Thấy bọn trẻ nhại giọng Tàu của mình, “chưởi cha không bằng pha tiếng„ bà Xì Thố hơi có chút bực bội, bà nói với giọng giận dữ:

- Mấy tứa (đứa) pây lì lợm không xuống, tau đập..chết..cha..pây!

- A, nị khiêu chiến ha! Tàu khiêu chiến với Việt Nam ha!

- Nị mà đánh..“chết cha“ ngộ, tụi ngộ.. tèo xuống xúm nhau đánh…“chết..mẹ“..nị!

- Mấy đứa pây hỗn ha! Tụi pây có xuống hết không ha?

- Cây..tứng (trứng) cá lày ở trên đất nước ngộ, pọn ngộ có quyền sử dụn..g, muốn…tịnh (định) cư luôn ở ..tây (đây) ha!

- Tụi pây làm lá rụn..g  tầy (đầy) sân, ai quét ha?

- Nị cứ về Tàu mà ở đi, thì khỏi quét ha!

   Biết cãi với bọn chúng chỉ vô ích, bà Xì Thố lẩm chẩm từng bước vẫn như con robot đi vào nhà. Bọn trẻ tưởng như thế đã yên, ai dè, bà trở ra với chiếc chổi chà cầm trên tay. Bà đến gốc cây trứng cá nhìn lên, lớn giọng:

- Tụi pây có xuống hết khôn..g, tau... thọt lên pây giờ!

   Vừa nói, bà Xì Thố vừa thọt chổi chà lên cây. Bọn trẻ nhanh nhẩu như những con khỉ con lập tức trèo cao ngọn né tránh. Một đứa hét:

- Nị thọt lên nữa, pọn ngộ...pọn ngộ...Nói chưa hết câu, Nam tiếp:

- Phe ta chuẩn bị...tấn công! 

   Rồi Nam liên tục hái những quả trứng cá xanh tới tấp ném xuống bà Xì Thố. Đám bạn khác cũng bắt chước. Những...viên đạn lả chả rơi xuống tứ tung vô tình rơi lốp đốp trên chiếc nón cời của một bà già đang ngồi dựa dưới gốc cây. Đó là bà già bán bánh tráng gạo, bánh tráng khoai lang cho những trẻ đi học qua lại trường trung học Hùng Vương gần đó. Bà ngồi bán đã vài năm trời, quá quen với bọn trẻ con nghịch phá trèo cây, hết lớp này đến lớp khác, nhưng chưa lần nào ồn ào như lần này.

   Nãy giờ bà ngồi đó, chiếc nón cời đắp mặt để tránh cái hanh nắng của buổi trưa hè, không ai rõ, bà thức hay ngủ, nhưng những quả trứng cá trúng nón đã khiến bà lồm cồm đứng dậy, chỉa mặt nhìn lên cây, nói:

- Nè, đám con nít kia, tụi bây có dừng tay không? Tụi bây ném nhỡ trúng bánh tráng bể hết bánh của tao bây giờ. 

- Bà già an tâm, bọn tui chỉ...chiến đấu với người Tàu hống hách ngang tàng, chứ không với bà đâu.

- Nhưng tụi bây...

- Bà an tâm nha bà!

   Nói xong, bọn trẻ lại tiếp tục hái những quả trứng cá xanh cẩn trọng nhắm về hướng bà Xì Thố. Những...viên đạn có trúng cũng không làm bà Xì Thố đau, không nhằm nhò gì với bà, song thấy bọn trẻ trèo cao quá nhỡ sẩy chân té xuống có mệnh hệ gì thì ít nhiều bà cũng có phần trách nhiệm, không chừng phải đền mạng như chơi, bà chả dại, đành chịu thua, rồi lẩm chẩm vẫn như con robot từng bước chầm chậm xách chổi vào nhà.


   Đợi lâu, không thấy bà trở ra, “hòa bình đã thực sự trên quê hương ta„ bọn trẻ trèo xuống, rủ nhau ngồi xếp bằng trên đôi dép của mình, trước mặt bà bán bánh tráng:

- Bà già, bán cho cái bánh tráng khoai lang ăn, bà già!

IMG_2830.JPG

Vừa quạt than vừa nướng bánh, bà già nhẹ nhàng trách: 

- Tụi bây, con gái con ghiếc gì mà leo trèo hoang quá!

 Nam đáp:

- Con gái cũng là...con. Con trai cũng là…con. Con nào cũng có hai chân, tại sao không trèo được chứ?

- Trèo có ngày té chết!

- Bà thấy bọn tui có đứa nào chết đâu!

 Bà già lắc đầu, hỏi tiếp:

- Tụi bây con nhà ai vậy?

Thanh Du lí lắc:

- Con ông Thiếu úy!

Bích Nga:

- Tui con ông Trung úy!

Hiền a dua:

- Còn tui con ông Đại úy!

- Con ông Thiếu úy, Trung úy hay Đại úy gì gì mà hoang quá tao cũng đập chết!

- Còn tui con ông Tỉnh Trưởng nè! Nam chen vô.

- Tỉnh Trưởng nào mà không nhốt mày trong…dinh để mày lang thang ra ngoài vậy?

- Tui trèo tường ra ngoài!

Bà già trách yêu:

- Trời nóng nực như vậy, ở trong..dinh ngủ trưa có sướng hơn không!

- Không! Ngủ còn biết gì sướng. Thức, ăn bánh tráng sướng hơn!

 Đến lượt Nam hỏi lại bà:

- Bà già, trời nóng nực như vậy, sao bà không bán chè đá có mát mẻ hơn không? 

- Tao nghèo quá vốn đâu mà bán chè. Với lại tao cũng già gánh không nổi. Bán bánh tráng chỉ có mỗi lò than và mấy cái bánh tráng cũng nhẹ, lại ít vốn.

- Tội nghiệp bà già ha. Sao con cái bà không nuôi bà?

- Chúng cũng nghèo nên tao phải phụ, đỡ đần cho chúng chứ.

- Vậy hằng ngày ở nhà, bà già ăn gì?

- Thì cũng cơm với rau.

- Có thịt cá không?

- Cũng có nhưng ít lắm.

- Có ăn bánh mì xíu không?

- Ăn bánh mì không thì có, nhưng cũng ít khi lắm.

- Tội nghiệp bà già quá! Bà nè, nhà ba mẹ tui có lò bánh mì, để tui về nhà lấy bánh mì biếu bà ha!

Bà già thở nhẹ:

- Mày lại ăn cắp bánh mì của cha mẹ rồi cho tao hả?

- Không ăn cắp đâu. Tui sẽ xin cha mẹ chứ.

- Cha mẹ mày rầy chết!

- Còn không, tui sẽ nhường phần tui để biếu bà.

     Chỉ nói chơi vậy, mà sau lần đó, cả Nam và Thanh Du về thưa với ông bà Khang và kể câu chuyện về bà già nghèo khổ bán bánh tráng. Thấy con có lòng nhân hậu biết thương người, ông bà Khang mừng lắm, hằng ngày ông bà cho phép Nam và Du thực hiện điều chúng mong ước. Từ đó, mỗi lần đi học ngang qua, bà già có bánh mì ăn, không chỉ bánh mì không mà lâu lâu còn có thịt xíu do chị em Nam giành phần biếu bà.

  Mỗi lần như thế, bà già hom hem mỉm cười, mặt rạng rỡ, nheo cặp mắt hiền từ nói với bọn Nam:

- Tụi bây hoang mà cũng thiệt ngoan đó!


 Trần Thị Nhật Hưng

   

   

 


***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8437)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8311)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7720)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8044)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9491)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15103)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8666)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13461)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8979)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10787)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]