Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Kể Bạn Nghe (Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32 Mùa Dịch Covid Vũ Hán)

23/07/202119:36(Xem: 6010)
Tôi Kể Bạn Nghe (Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32 Mùa Dịch Covid Vũ Hán)
Tôi Kể Bạn Nghe
(Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32  Mùa Dịch Covid Vũ Hán)
Trần Thị Nhật Hưng

 Từ lâu, khi đến chùa, tôi thường nghe hai chữ “thần thông„ tôi nghĩ là...thần sầu, người đó thấy, nghe, biết hết những gì thiên hạ không biết dù ở xa vạn dặm, biết những suy nghĩ của người khác, biết về những điều sẽ xảy ra, biết luôn những chuyện trên trời dưới đất như Ngài Mục Kiền Liên nhờ thần thông nhìn thấy cả thân mẫu mình đang đọa đày dưới địa ngục ..v.v..và.v.v..

   Nghe thì tôi chỉ biết nghe, nhưng lòng cứ lâng lâng mơ mơ màng màng không rõ thực hư?!

   Nhưng ngày nay, với phương tiện Internet bao người khắp nơi trên thế giới cùng “chui„ vô một cái phòng thảo luận, trò chuyện còn thấy được mặt nhau thì không gọi...thần thông là gì (?). Điều không tưởng mà thực sự đã hiển hiện. Rõ ra, khoa học đã chứng minh làm sáng tỏ hai chữ „thần thông“, những ý niệm của Phật giáo về những điều Đức Phật từng nói ra cách đây mấy ngàn năm. Nhà bác học Einstein đã chẳng nói:“Nếu có một tôn giáo thích hợp với khoa học, chính là Phật giáo.

   Hôm nay, cũng chính nhờ... thần thông, và để giải quyết sự ngưng trệ do dịch covid Vũ Hán tạo ra sau hai năm đóng băng, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã tùy duyên sử dụng...thần thông, thiên nhỉ, thiên nhãn (từ xa vạn dặm vẫn nghe và thấy nhau được) tổ chức Khóa Tu Âu Châu kỳ thứ 32 trên mạng.

  Tổ chức trên mạng có điều lợi giúp cho tất cả mọi người không tốn sức đi lại, không tốn tiền tàu xe và nhất là những người trên thế giới có thể vào tham dự nếu cùng múi giờ, và cho những người xưa nay bận công việc không thể tham gia suốt 10 ngày tại hội trường thì bây giờ chỉ ngồi nhà mở máy ra, coi như tham dự rồi đó. Tuy nhiên sự kiện nào cũng có hai mặt lợi, hại. Giữa khi những vị giỏi Internet, nhất là giới trẻ dễ dàng vào “Zoom„ thì các cụ già ù ù cạc cạc còn lang thang trong cõi ta bà không biết đâu lần mò. Thôi thì mọi sự đều có cái duyên của nó, tùy duyên mà hành sự thôi.

  Trở lại khóa tu, khóa tu được tổ chức từ 20 giờ thứ 6, tiếp nối cho đến chiều chủ nhật chấm dứt. Và tổ chức như thế suốt hai cuối tuần tháng 7. Chương trình đương nhiên cô đọng gói gọn lại nhưng không kém phần trang trọng lẫn thích thú. Thích thú vì tìm thấy lại những khuôn mặt thân thương, không khí rộn ràng như những buổi học ngày nào tại hội trường của những khóa tu học nhiều năm trước.

   Chương trình bắt đầu không thể thiếu nghi lễ khai mạc, tôi vốn cũng ù ù cạc cạc Computer, mò mẫm mãi cuối cùng cũng chui vào được Zoom để kịp tham dự buổi lễ.

   Giọng nói rổn rảng của Thầy Hoằng Khai, MC các khóa tu, nghe rất quen thuộc, vị Thầy mà tôi...gán cho là...đệ tử của Ngài Địa Tạng dưới địa ngục. Nếu như Ngài Địa Tạng từng tuyên bố: “Khi nào dưới địa ngục không còn người thì ta mới chịu thành Phật„ thì trên cõi ta bà, Thầy Hoằng Khai chắc cũng: “Khi nào các cô hồn các đảng hết là...cô hồn vất vưỡng thì ta mới thành...chánh quả!„ (?) Vì Thầy là vị luôn được bầu làm chủ tế trong các buổi lễ “Chẩn tế cô hồn„.

   Tuy vào Zoom trễ chút, tôi vẫn còn kịp nghe Diễn Văn khai mạc của Thầy Thích Hạnh Tấn, trưởng ban tổ chức khóa tu, người điều hành mọi kết nối giữa các vị Giảng Sư, học viên và các anh em Gia Đình Phật Tử phụ trách kỹ thuật. Một công việc khởi đầu nan, nghe...đơn giản mà không...giản đơn đâu, bạn nhé. Kế tiếp là Đạo Từ của Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt, Đệ  Nhất Chủ tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Và sau khi hồi hướng, buổi học đã bắt đầu ngay sau đó. Lớp nào lớp nấy, cầm...chìa khóa (số mật mã của phòng) trở về phòng học của mình.

   Có tất cả 5 lớp học:

- Lớp 1: Riêng lớp này thật nhiêu khê, khốn khó cho ban tổ chức vì phải chia ra ba lớp với 3 ngôn ngữ khác nhau: Anh, Pháp, Đức dành cho các em thanh thiếu niên sinh trưởng tại Âu Châu không rành tiếng Việt.

- Lớp 2: Dành cho học viên bắt đầu học Phật.

- Lớp 3: Chuyên khoa dành cho người học Phật lâu năm, tuy nhiên Phật tử nào muốn nhảy lớp...bơi theo kịp thì chẳng ai cấm.

   Kỳ này không có lớp 4, lớp thường dành cho Tăng, Ni. Quí Thầy, Cô muốn ôn bài, thì cứ tụt xuống lớp 3 học chung với Phật tử.

  Riêng tôi, tôi theo lớp 3 vì là Phật tử học Phật lâu năm, chứ thực sự tôi còn...ngu lắm, vì theo lớp này đã nhiều năm mà cứ ngồi mãi không lên nổi lớp 4 (?!).

  Lớp 3 học về:

1- Trung Ấm Thân: (do Thầy Thích Như Điển, Đức quốc,  Đệ Nhị Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đảm trách)

   Trung Ấm Thân chính là thân giữa của sự sống và chết. Nằm giữa của:

- Tiền Ấm Thân: tức là thân đang có với ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức biết vui, buồn, khổ, đau, ham sống và sợ chết..v.v..

- Hậu Ấm Thân: Sẽ đi đầu thai tùy theo nghiệp lực và tu tập của mình nhiều đời nhiều kiếp. Có 3 cách đầu thai: Đi ngang trở về làm người. Đi lên theo Chư Thiên, Bồ Tát hay cõi Phật. Đi xuống tức đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Đó là lý do cúng thất tuần, trong 49 ngày cần hộ niệm để hướng dẫn tâm thức khi thoát thân xác sẽ nương luồng ánh sáng trắng mà giải thoát. Nếu không sẽ trở thành cô hồn.

2- Du Già Sư Địa Luận (Thầy Tâm Huệ, Thụy Điển, phụ trách):

   Du Già là bộ luận theo tinh thần đại thừa rất nổi tiếng có tất cả 100 tập và 17 địa từ phàm phu địa đến Phật địa. 50 tập đầu do Đức Phật Di Lặc thuyết. 50 tập sau do Ngài Vô Trước 5 năm khổ hạnh rừng sâu kết tập chỉnh lý lại làm sáng tỏ thêm 50 tập trước dù cả hai cách nhau 900 năm. Mãi về sau, Ngài Huyền Trang, cháu nội 4 đời của Ngài Vô Trước dịch và phổ biến cho đến ngày nay. Nội dung bộ luận gom lại trong 4 chữ: Giáo, lý, hành và quả. Giáo là một cặp tương ưng. Nếu giáo đúng thì lý đúng. Sau đó thực hành theo thời, căn cơ trình độ để đạt quả Niết Bàn.

   Bản thể của Du Già vốn phóng khoáng tuy nhiên không truyền cho người nóng nảy sân si. Có 4 giới căn bản đi vào đời:

- Không tự tán, hủy tha (tự khen mình, chê người).

- Tinh thần Bồ Tát mong tất cả an vui sung túc do vậy biết bố thí, cúng dường.

- Không sân si nóng nảy.

- Không phỉ báng Tam Bảo.

3- Niềm tin bị hủy diệt (Thầy Giác Thanh, Đan Mạch, phụ trách)

   Nếu đặt niềm tin một cách mù quáng không trí tuệ vào một vị thần linh nào đó rồi khi không đạt được điều mong muốn, không được cứu rỗi, niềm tin sẽ bị hủy diệt ngay. Như trường hợp đạo Hindu (Ấn Độ giáo) bên Ấn độ vừa qua, họ đã phá bỏ hằng ngàn tượng thần la liệt trên một đoạn đường dài và ném cả xuống sông Hằng khi họ đã van xin cầu cứu vào vị thần linh mà họ hết lòng tin tưởng một cách mãnh liệt và đã từng hằng năm chặt đầu hằng ngàn trâu, bò để tế thần đã không cứu họ trong cơn khốn khó của nạn Covid vừa qua.

   Riêng đạo Phật chúng ta, Đức Phật không hề tuyên bố cứu độ cho bất cứ ai mà chỉ hóa độ hướng dẫn chúng ta con đường giác ngộ để tự mình giải thoát, tự mình thắp đuốc lên mà đi, biết phát nguyện qui y, nương vào Tam Bảo quay nhìn về tâm thức của mình mà sám hối lỗi lầm, tu sửa để an lạc chứ Phật không ban phước cũng không trừng phạt. Nghe hay không là do duyên của chúng ta với Phật mà thôi.

4- Y Báo và Chánh Báo (Thầy Hoằng Khai, Na Uy, phụ trách)

- Chánh Báo chủ động tạo tác do con người, là hữu tình chúng sinh nói về cảnh giới nội tâm của chúng ta với 6 nẻo luân hồi: Trời, người, A Tu La, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và 4 hữu tình bậc thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật.

- Y Báo là cảnh giới bên ngoài, thuộc loại thực vật, cảnh vật xung quanh, nương tựa vào các loài hữu tình, phụ thuộc vào Chánh Báo.

 Chánh BáoY Báo tương tác nhau tạo nên cảnh giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà mà từ hồi Ngài còn là tỳ kheo Pháp Tạng, tiền thân của Ngài đã phát nguyện tu nhân 5 kỳ kiếp tạo ra cảnh giới đó nhằm xây dựng đạo tràng trang nghiêm để tiếp độ chúng sinh. Và Chánh Báo có 15 điều, Y Báo có 19 điều đều do Hòa Thượng Trí Thủ soạn lại cho chúng ta ngày nay.

5- Tam Giải Thoát Môn (Thầy Pháp Trú, Đan Mạch, phụ trách)

   Đó là 3 cánh cửa đưa đến giải thoát giác ngộ mà trong kinh Pháp Ấn Phật thuyết Tăng, Ni tìm cánh cửa giải thóat trước để sau đó Phật tử nương theo Sư tập họp tu tập tạo năng lực.

Ba cánh cửa đó là:

- Vô môn: Có nghĩa là không môn, nhưng không phải “không có cửa„ mà ở đây ý nói trước mọi vấn đề hãy dùng trí Bát Nhã quán chiếu mọi sự đều là không “Sắc sắc, không không. Không không, sắc sắc„. Suy niệm về tánh không để buông xả vọng tưởng, chấp ngã, chấp pháp mới tìm thấy giải thoát.

- Vô tướng: Nhận thức thế nào không kẹt vào tướng, chấp tướng. Ví dụ do ham đồ hiệu để phải mua lầm đồ giả. Nghe lời quảng cáo ngọt ngào để rồi bị gạt. Do vậy làm bất cứ điều gì cần có chánh niệm. Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với 6 trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp luôn cần bảo hộ.

- Vô tác: Không tạo tác, không ham muốn, không làm những gì gây phiền não cho mình cho người mà chỉ thể hiện hành động, lời nói với tâm thức tốt, nuôi dưỡng sự an lạc tích cực, quên bản ngã mới có thể tìm sự giải thoát.

6- Diệt tội (Thầy Hạnh Hòa, Đức quốc, phụ trách)

    Tội là do thân tâm từ sự mê mờ luôn chấp cái thân ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà ra, quên mất tính không, tạo nên bản ngã.

   Để đối trị 5 cái thân ngũ uẩn thường gây nên tội đó, Ngài Huệ Năng đã hướng dẫn chúng ta “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật„ hãy nhìn tâm bên trong mình, đừng luông tuồng bên ngoài để tìm cầu. Mà muốn được như thế, Ngài đã chỉ cho ta 5 pháp môn:

- Giới hương: Giữ thân thanh tịnh, không tật đố tham sân si mạn nghi..v.v..

- Định hương: Thấy cảnh ác, không tán loạn. Tâm bình, không lay động. Biết phân biệt thiện ác, nhưng không đắm nhiễm.

- Huệ hương: Huệ tác dụng của định. Định là bản thể của huệ. Khi tâm đã định thì trí huệ phát sinh quán chiếu được điều thiện ác mà hành xử.

- Giải thoát hương: Chính là quả của ba hương trên, giúp hành giả tự tại vô ngại, không bị trói buộc vào thiện, ác.

- Giải thoát tri kiến hương: Khi đã không tạo tội, tạo nghiệp đương nhiên sẽ có năng lực giải thoát, sẽ không vướng mắc, trụ vào ta, vào người. Trực chỉ tâm Bồ Đề.

   Do vậy chúng ta cần phải giác, sống trong tỉnh thức, không mê mờ để không tạo tội. Tuy nhiên, nếu lỡ đã tạo tội, sau khi quán chiếu nhận ra, Ngài Huệ Năng còn cho ta Pháp Sám Hối: Sám tội trước, rồi hối tội về sau, tương lai không tạo nữa mới diệt được tội 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai từ 3 nghiệp thanh tịnh thân, khẩu, ý.

7- Sự Hoạt Dụng của Tâm (Thầy Thông Trí, Pháp quốc, phụ trách)

   Tâm là tấm lòng, vô hình, nhưng vẫn nhận biết khi nhìn sự kiện, là sự huân tập từ suy nghĩ, tiếp xúc, thói quen, tích lũy rồi đưa ra khái niệm. Tất cả các pháp nhất thiết duy tâm tạo. Tạo được do tâm. Chẳng hạn một tôn tượng Phật tạo ra sẽ rất đẹp, rất tinh xảo nếu người đúc có tâm thành, tâm Phật.

   Có 4 cửa đi vào đạo để tạo tâm thức tốt:

- Thân cận thiện sĩ (bạn lành), thiện hữu tri thức.

- Thính văn chánh pháp: Huân tập lắng nghe những điều tốt lành.

- Như lý tác ý: Suy tư, quán chiếu những điều đã nghe để thực hành.

- Pháp tùy pháp hành: Tùy duyên mà hành động.

8- Quá trình của Tâm. Thập Mục Ngưu Đồ (Thầy Hạnh Tấn, Đức quốc, phụ trách)

   Tranh « Thập Mục Ngưu Đồ » xuất xứ từ thế kỷ 12 đời nhà Tống nói về quá trình tu tập trong tinh thần đại thừa. Hình ảnh con trâu biểu tượng tâm chúng sinh. Từ một con trâu đen, qua quá trình điều phục dẫn dắt để trở thành trâu trắng. Cũng như thế, tâm chúng sinh cũng nhờ giới mới chế phục được tâm. Giới làm sạch những dơ bẩn của dục đưa con người vào định, tức vào sơ thiền. Khi tâm đã được điều phục sẽ không còn bản ngã, không còn chấp thủ, và không còn cả tâm.Tất cả đã buông xả hoàn toàn trở về trống không, tâm thức tĩnh lặng an lạc nhẹ nhàng. Hành giả lúc đó thảnh thơi hòa nhập cõi ta bà đi vào đời không vướng mắc. Hòa nhập giải thoát chứ không hội nhập để cứu độ chúng sinh.

   

   Kính thưa các bạn. Đó là tất cả những bài học của lớp 3 mà tôi tóm lược theo lời giảng của quí Thầy. Nhiều quá phải không các bạn? Thôi thì, chúng ta sẽ tóm gọn theo bài kệ rất nổi tiếng của Tổ Phước Hậu:

 Kinh điển lưu truyền tám vạn tư.

Học hành không thiếu cũng không dư.

Đến nay nghĩ lại chừng quên hết.

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ!(Như Lai)

 

Chúng ta chỉ nhớ đến Phật, chính là Đức Như Lai của chúng ta, nhớ đến lời dạy của Ngài qua lời giảng của quí Thầy trong khóa tu lần này, nhớ chút nào hay chút nấy.

  Nhưng nhìn chung, khóa Tu Học Âu Châu kỳ thứ 32, tuy trên không gian ảo, vì tổ chức online, nhưng lại người thật, việc thật. Những buổi giảng không phải là những bài thuyết giảng thông thường để Phật tử nghe qua cho biết hay giết thì giờ, mà là những bài học bài bản, giáo trình rõ ràng giúp cho Phật tử hiểu thêm về giáo lý, kinh điển của Đức Phật để tăng trưởng niềm tin và nâng cao trình độ, có vậy sự tín tâm càng sâu dày, vững chắc, Bồ Đề tâm càng kiên cố.

   Với tổng số lượng 516 học viên chia ra nhiều lớp chứng tỏ tinh thần học pháp rất cao của Phật tử Âu Châu nói riêng và cộng đồng Phật tử các nước Canada, Đài Loan, Nga, Úc, Hoa Kỳ, Việt Nam nói chung dù trái múi giờ. Đặc biệt tại Pháp có thêm 33 người bản xứ, đệ tử của chùa Thiện Minh Lyon tham dự vì chương trình có nói tiếng Pháp.

   Các giờ giảng, ngoài Giảng Sư, luôn có các anh em Gia Đình Phật Tử (GĐPT) Âu Châu, đặc biệt anh chị em nước Đức đã đóng góp tích cực, ngoài điều hành kỹ thuật vô cùng tuyệt vời chu đáo, làm MC giới thiệu chương trình, giới thiệu Giảng Sư, độc đáo và tuyệt vời nhất là sau mỗi buổi giảng, các anh chị em còn tóm lược tác pháp một cách thông suốt, nhuần nhuyễn giúp học viên hiểu rõ bài hơn, làm như anh em đã học từ kiếp trước như Ngài Huệ Năng vậy. Thật vô cùng đáng khen và ngưỡng mộ. Riêng quí Thầy thì…không thể nghĩ bàn, với thời gian các sư trẻ được đào luyện tập tành nay đã trở thành những vị Giảng Sư tuyệt vời không biết dùng lời gì để ….(?) ngoài lời…không thể nghĩ bàn! Đó chưa kể lực lượng Tăng, Ni trẻ thông thạo ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức để giảng dạy cho những học viên sinh trưởng xứ người không rành tiếng Việt. Cả một công trình vô cùng khó khăn để điều hợp, không biết nói sao ngoài câu…không thể nghĩ bàn!

   Buổi bế mạc, dù tổ chức online cũng không thiếu chương trình văn nghệ qua những lời ca tiếng nhạc và những màn vũ tập thể cũng do các anh em GĐPT đảm trách, mỗi người mỗi nhà trong tình trạng cách ly vạn dặm vẫn múa chung với nhau được.

        

khoa tu online-au chau-1khoa tu online-au chau-2




   Một ý kiến đáng ghi nhớ, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển, trước sự thành công không ngờ của khóa tu, đã có lời đề nghị Âu Châu nên thành lập một website riêng để có tiếng nói chung thay vì mỗi chùa đều làm riêng như bấy lâu.

   Lời sau cùng, riêng con, dù bất cứ khóa tu Âu Châu nào dưới hình thức nào, con vẫn không quên tri ân cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, người đầu tiên sáng lập đạo tràng để lại cho chúng Phật tử Âu Châu kế thừa và đương nhiên con cũng tri ân công sức quí Tăng, Ni cùng toàn thể Phật tử Âu Châu đã tận tụy tổ chức vô cùng bài bản với mong ước đem giáo pháp của Đức Phật truyền bá sâu rộng để Phật giáo luôn được trường tồn và phát triển.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Trần Thị Nhật Hưng

 

    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2021(Xem: 4595)
Vào thời đại này, kể cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết dùng máy vi tính rất rành. Ngay trong sự sanh hoạt ngày thường, con người chỗ nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc đến máy vi tính, như là xe hơi, dụng cụ nhà bếp, máy móc thương nghiệp, cơ giới công nghiệp, dụng cụ điều trị, thậm chí trong đồ chơi của trẻ con cũng có trang trí máy vi tính lớn nhỏ phức tạp và đơn giản không giống nhau. Đến nỗi ở trong cơ quan điều khiển tinh vi, máy vi tính lại càng không thể có khuyết điểm, chẳng hạn như Phi Cơ, Tàu Thủy, Tín Hiệu Vô Tuyến Truyền Đạt..v..v.... đều an trí máy vi tính rất đầy đủ cao cấp. Chính nơi trang bị quân sự, máy vi tính lại càng trọng yếu hơn. Cho nên con người hiện nay sanh hoạt đều càng ngày càng ỷ lại nhiều vào máy vi tính thì nó càng quan trọng hơn.
13/01/2021(Xem: 4744)
Tăng đoàn của Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley đã thông báo rằng, Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman (Tông Thuần, Sōjun, 宗純), vị Trưởng lão Thiền sư đáng kính của Thiền phái Tào Động (Sōtō Zen, 曹洞宗), Phật giáo Nhật Bản, vị Giáo thọ sư nổi tiếng đã viên tịch vào hôm thứ Năm, ngày 7 tháng 1 năm 2021. Hưởng thượng thọ 91 tuổi. Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman, người cùng với Trưởng lão Thiền sư Shunryu Suzuki Roshi (pháp danh Shōgaku Shunryū, 祥 岳俊隆, 1901-1971), đồng sáng lập Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley, một trung tâm thực hành Thiền phái Tào Động, Phật giáo Nhật Bản tại Berkeley, California, Hoa Kỳ vào năm 1967.
12/01/2021(Xem: 6499)
Kính thưa quý Phật tử, đồng hương xa gần kính mến, Trái đất xoay tròn, một năm nữa lại đến. Gió xuân, mai đào, bánh chưng, bánh tét... đang đem niềm vui mùa xuân đến cho hành tinh chúng ta. Quý Ni sư kính lời vấn an sức khỏe đến quý Phật tử, tri ân tình thương của quý vị trong thời gian qua, nhất là trong mùa đại dịch Covid Corona, quý vị luôn đồng hành ủng hộ để Chùa Hương Sen được yên ổn sinh hoạt và an tâm tu tập, tụng niệm.
12/01/2021(Xem: 4618)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 7030)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6103)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 5677)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5574)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6986)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4375)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]