Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Kể Bạn Nghe (Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32 Mùa Dịch Covid Vũ Hán)

23/07/202119:36(Xem: 5959)
Tôi Kể Bạn Nghe (Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32 Mùa Dịch Covid Vũ Hán)
Tôi Kể Bạn Nghe
(Khóa Tu Học Âu Châu Kỳ 32  Mùa Dịch Covid Vũ Hán)
Trần Thị Nhật Hưng

 Từ lâu, khi đến chùa, tôi thường nghe hai chữ “thần thông„ tôi nghĩ là...thần sầu, người đó thấy, nghe, biết hết những gì thiên hạ không biết dù ở xa vạn dặm, biết những suy nghĩ của người khác, biết về những điều sẽ xảy ra, biết luôn những chuyện trên trời dưới đất như Ngài Mục Kiền Liên nhờ thần thông nhìn thấy cả thân mẫu mình đang đọa đày dưới địa ngục ..v.v..và.v.v..

   Nghe thì tôi chỉ biết nghe, nhưng lòng cứ lâng lâng mơ mơ màng màng không rõ thực hư?!

   Nhưng ngày nay, với phương tiện Internet bao người khắp nơi trên thế giới cùng “chui„ vô một cái phòng thảo luận, trò chuyện còn thấy được mặt nhau thì không gọi...thần thông là gì (?). Điều không tưởng mà thực sự đã hiển hiện. Rõ ra, khoa học đã chứng minh làm sáng tỏ hai chữ „thần thông“, những ý niệm của Phật giáo về những điều Đức Phật từng nói ra cách đây mấy ngàn năm. Nhà bác học Einstein đã chẳng nói:“Nếu có một tôn giáo thích hợp với khoa học, chính là Phật giáo.

   Hôm nay, cũng chính nhờ... thần thông, và để giải quyết sự ngưng trệ do dịch covid Vũ Hán tạo ra sau hai năm đóng băng, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã tùy duyên sử dụng...thần thông, thiên nhỉ, thiên nhãn (từ xa vạn dặm vẫn nghe và thấy nhau được) tổ chức Khóa Tu Âu Châu kỳ thứ 32 trên mạng.

  Tổ chức trên mạng có điều lợi giúp cho tất cả mọi người không tốn sức đi lại, không tốn tiền tàu xe và nhất là những người trên thế giới có thể vào tham dự nếu cùng múi giờ, và cho những người xưa nay bận công việc không thể tham gia suốt 10 ngày tại hội trường thì bây giờ chỉ ngồi nhà mở máy ra, coi như tham dự rồi đó. Tuy nhiên sự kiện nào cũng có hai mặt lợi, hại. Giữa khi những vị giỏi Internet, nhất là giới trẻ dễ dàng vào “Zoom„ thì các cụ già ù ù cạc cạc còn lang thang trong cõi ta bà không biết đâu lần mò. Thôi thì mọi sự đều có cái duyên của nó, tùy duyên mà hành sự thôi.

  Trở lại khóa tu, khóa tu được tổ chức từ 20 giờ thứ 6, tiếp nối cho đến chiều chủ nhật chấm dứt. Và tổ chức như thế suốt hai cuối tuần tháng 7. Chương trình đương nhiên cô đọng gói gọn lại nhưng không kém phần trang trọng lẫn thích thú. Thích thú vì tìm thấy lại những khuôn mặt thân thương, không khí rộn ràng như những buổi học ngày nào tại hội trường của những khóa tu học nhiều năm trước.

   Chương trình bắt đầu không thể thiếu nghi lễ khai mạc, tôi vốn cũng ù ù cạc cạc Computer, mò mẫm mãi cuối cùng cũng chui vào được Zoom để kịp tham dự buổi lễ.

   Giọng nói rổn rảng của Thầy Hoằng Khai, MC các khóa tu, nghe rất quen thuộc, vị Thầy mà tôi...gán cho là...đệ tử của Ngài Địa Tạng dưới địa ngục. Nếu như Ngài Địa Tạng từng tuyên bố: “Khi nào dưới địa ngục không còn người thì ta mới chịu thành Phật„ thì trên cõi ta bà, Thầy Hoằng Khai chắc cũng: “Khi nào các cô hồn các đảng hết là...cô hồn vất vưỡng thì ta mới thành...chánh quả!„ (?) Vì Thầy là vị luôn được bầu làm chủ tế trong các buổi lễ “Chẩn tế cô hồn„.

   Tuy vào Zoom trễ chút, tôi vẫn còn kịp nghe Diễn Văn khai mạc của Thầy Thích Hạnh Tấn, trưởng ban tổ chức khóa tu, người điều hành mọi kết nối giữa các vị Giảng Sư, học viên và các anh em Gia Đình Phật Tử phụ trách kỹ thuật. Một công việc khởi đầu nan, nghe...đơn giản mà không...giản đơn đâu, bạn nhé. Kế tiếp là Đạo Từ của Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt, Đệ  Nhất Chủ tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Và sau khi hồi hướng, buổi học đã bắt đầu ngay sau đó. Lớp nào lớp nấy, cầm...chìa khóa (số mật mã của phòng) trở về phòng học của mình.

   Có tất cả 5 lớp học:

- Lớp 1: Riêng lớp này thật nhiêu khê, khốn khó cho ban tổ chức vì phải chia ra ba lớp với 3 ngôn ngữ khác nhau: Anh, Pháp, Đức dành cho các em thanh thiếu niên sinh trưởng tại Âu Châu không rành tiếng Việt.

- Lớp 2: Dành cho học viên bắt đầu học Phật.

- Lớp 3: Chuyên khoa dành cho người học Phật lâu năm, tuy nhiên Phật tử nào muốn nhảy lớp...bơi theo kịp thì chẳng ai cấm.

   Kỳ này không có lớp 4, lớp thường dành cho Tăng, Ni. Quí Thầy, Cô muốn ôn bài, thì cứ tụt xuống lớp 3 học chung với Phật tử.

  Riêng tôi, tôi theo lớp 3 vì là Phật tử học Phật lâu năm, chứ thực sự tôi còn...ngu lắm, vì theo lớp này đã nhiều năm mà cứ ngồi mãi không lên nổi lớp 4 (?!).

  Lớp 3 học về:

1- Trung Ấm Thân: (do Thầy Thích Như Điển, Đức quốc,  Đệ Nhị Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đảm trách)

   Trung Ấm Thân chính là thân giữa của sự sống và chết. Nằm giữa của:

- Tiền Ấm Thân: tức là thân đang có với ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức biết vui, buồn, khổ, đau, ham sống và sợ chết..v.v..

- Hậu Ấm Thân: Sẽ đi đầu thai tùy theo nghiệp lực và tu tập của mình nhiều đời nhiều kiếp. Có 3 cách đầu thai: Đi ngang trở về làm người. Đi lên theo Chư Thiên, Bồ Tát hay cõi Phật. Đi xuống tức đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Đó là lý do cúng thất tuần, trong 49 ngày cần hộ niệm để hướng dẫn tâm thức khi thoát thân xác sẽ nương luồng ánh sáng trắng mà giải thoát. Nếu không sẽ trở thành cô hồn.

2- Du Già Sư Địa Luận (Thầy Tâm Huệ, Thụy Điển, phụ trách):

   Du Già là bộ luận theo tinh thần đại thừa rất nổi tiếng có tất cả 100 tập và 17 địa từ phàm phu địa đến Phật địa. 50 tập đầu do Đức Phật Di Lặc thuyết. 50 tập sau do Ngài Vô Trước 5 năm khổ hạnh rừng sâu kết tập chỉnh lý lại làm sáng tỏ thêm 50 tập trước dù cả hai cách nhau 900 năm. Mãi về sau, Ngài Huyền Trang, cháu nội 4 đời của Ngài Vô Trước dịch và phổ biến cho đến ngày nay. Nội dung bộ luận gom lại trong 4 chữ: Giáo, lý, hành và quả. Giáo là một cặp tương ưng. Nếu giáo đúng thì lý đúng. Sau đó thực hành theo thời, căn cơ trình độ để đạt quả Niết Bàn.

   Bản thể của Du Già vốn phóng khoáng tuy nhiên không truyền cho người nóng nảy sân si. Có 4 giới căn bản đi vào đời:

- Không tự tán, hủy tha (tự khen mình, chê người).

- Tinh thần Bồ Tát mong tất cả an vui sung túc do vậy biết bố thí, cúng dường.

- Không sân si nóng nảy.

- Không phỉ báng Tam Bảo.

3- Niềm tin bị hủy diệt (Thầy Giác Thanh, Đan Mạch, phụ trách)

   Nếu đặt niềm tin một cách mù quáng không trí tuệ vào một vị thần linh nào đó rồi khi không đạt được điều mong muốn, không được cứu rỗi, niềm tin sẽ bị hủy diệt ngay. Như trường hợp đạo Hindu (Ấn Độ giáo) bên Ấn độ vừa qua, họ đã phá bỏ hằng ngàn tượng thần la liệt trên một đoạn đường dài và ném cả xuống sông Hằng khi họ đã van xin cầu cứu vào vị thần linh mà họ hết lòng tin tưởng một cách mãnh liệt và đã từng hằng năm chặt đầu hằng ngàn trâu, bò để tế thần đã không cứu họ trong cơn khốn khó của nạn Covid vừa qua.

   Riêng đạo Phật chúng ta, Đức Phật không hề tuyên bố cứu độ cho bất cứ ai mà chỉ hóa độ hướng dẫn chúng ta con đường giác ngộ để tự mình giải thoát, tự mình thắp đuốc lên mà đi, biết phát nguyện qui y, nương vào Tam Bảo quay nhìn về tâm thức của mình mà sám hối lỗi lầm, tu sửa để an lạc chứ Phật không ban phước cũng không trừng phạt. Nghe hay không là do duyên của chúng ta với Phật mà thôi.

4- Y Báo và Chánh Báo (Thầy Hoằng Khai, Na Uy, phụ trách)

- Chánh Báo chủ động tạo tác do con người, là hữu tình chúng sinh nói về cảnh giới nội tâm của chúng ta với 6 nẻo luân hồi: Trời, người, A Tu La, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và 4 hữu tình bậc thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật.

- Y Báo là cảnh giới bên ngoài, thuộc loại thực vật, cảnh vật xung quanh, nương tựa vào các loài hữu tình, phụ thuộc vào Chánh Báo.

 Chánh BáoY Báo tương tác nhau tạo nên cảnh giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà mà từ hồi Ngài còn là tỳ kheo Pháp Tạng, tiền thân của Ngài đã phát nguyện tu nhân 5 kỳ kiếp tạo ra cảnh giới đó nhằm xây dựng đạo tràng trang nghiêm để tiếp độ chúng sinh. Và Chánh Báo có 15 điều, Y Báo có 19 điều đều do Hòa Thượng Trí Thủ soạn lại cho chúng ta ngày nay.

5- Tam Giải Thoát Môn (Thầy Pháp Trú, Đan Mạch, phụ trách)

   Đó là 3 cánh cửa đưa đến giải thoát giác ngộ mà trong kinh Pháp Ấn Phật thuyết Tăng, Ni tìm cánh cửa giải thóat trước để sau đó Phật tử nương theo Sư tập họp tu tập tạo năng lực.

Ba cánh cửa đó là:

- Vô môn: Có nghĩa là không môn, nhưng không phải “không có cửa„ mà ở đây ý nói trước mọi vấn đề hãy dùng trí Bát Nhã quán chiếu mọi sự đều là không “Sắc sắc, không không. Không không, sắc sắc„. Suy niệm về tánh không để buông xả vọng tưởng, chấp ngã, chấp pháp mới tìm thấy giải thoát.

- Vô tướng: Nhận thức thế nào không kẹt vào tướng, chấp tướng. Ví dụ do ham đồ hiệu để phải mua lầm đồ giả. Nghe lời quảng cáo ngọt ngào để rồi bị gạt. Do vậy làm bất cứ điều gì cần có chánh niệm. Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với 6 trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp luôn cần bảo hộ.

- Vô tác: Không tạo tác, không ham muốn, không làm những gì gây phiền não cho mình cho người mà chỉ thể hiện hành động, lời nói với tâm thức tốt, nuôi dưỡng sự an lạc tích cực, quên bản ngã mới có thể tìm sự giải thoát.

6- Diệt tội (Thầy Hạnh Hòa, Đức quốc, phụ trách)

    Tội là do thân tâm từ sự mê mờ luôn chấp cái thân ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà ra, quên mất tính không, tạo nên bản ngã.

   Để đối trị 5 cái thân ngũ uẩn thường gây nên tội đó, Ngài Huệ Năng đã hướng dẫn chúng ta “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật„ hãy nhìn tâm bên trong mình, đừng luông tuồng bên ngoài để tìm cầu. Mà muốn được như thế, Ngài đã chỉ cho ta 5 pháp môn:

- Giới hương: Giữ thân thanh tịnh, không tật đố tham sân si mạn nghi..v.v..

- Định hương: Thấy cảnh ác, không tán loạn. Tâm bình, không lay động. Biết phân biệt thiện ác, nhưng không đắm nhiễm.

- Huệ hương: Huệ tác dụng của định. Định là bản thể của huệ. Khi tâm đã định thì trí huệ phát sinh quán chiếu được điều thiện ác mà hành xử.

- Giải thoát hương: Chính là quả của ba hương trên, giúp hành giả tự tại vô ngại, không bị trói buộc vào thiện, ác.

- Giải thoát tri kiến hương: Khi đã không tạo tội, tạo nghiệp đương nhiên sẽ có năng lực giải thoát, sẽ không vướng mắc, trụ vào ta, vào người. Trực chỉ tâm Bồ Đề.

   Do vậy chúng ta cần phải giác, sống trong tỉnh thức, không mê mờ để không tạo tội. Tuy nhiên, nếu lỡ đã tạo tội, sau khi quán chiếu nhận ra, Ngài Huệ Năng còn cho ta Pháp Sám Hối: Sám tội trước, rồi hối tội về sau, tương lai không tạo nữa mới diệt được tội 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai từ 3 nghiệp thanh tịnh thân, khẩu, ý.

7- Sự Hoạt Dụng của Tâm (Thầy Thông Trí, Pháp quốc, phụ trách)

   Tâm là tấm lòng, vô hình, nhưng vẫn nhận biết khi nhìn sự kiện, là sự huân tập từ suy nghĩ, tiếp xúc, thói quen, tích lũy rồi đưa ra khái niệm. Tất cả các pháp nhất thiết duy tâm tạo. Tạo được do tâm. Chẳng hạn một tôn tượng Phật tạo ra sẽ rất đẹp, rất tinh xảo nếu người đúc có tâm thành, tâm Phật.

   Có 4 cửa đi vào đạo để tạo tâm thức tốt:

- Thân cận thiện sĩ (bạn lành), thiện hữu tri thức.

- Thính văn chánh pháp: Huân tập lắng nghe những điều tốt lành.

- Như lý tác ý: Suy tư, quán chiếu những điều đã nghe để thực hành.

- Pháp tùy pháp hành: Tùy duyên mà hành động.

8- Quá trình của Tâm. Thập Mục Ngưu Đồ (Thầy Hạnh Tấn, Đức quốc, phụ trách)

   Tranh « Thập Mục Ngưu Đồ » xuất xứ từ thế kỷ 12 đời nhà Tống nói về quá trình tu tập trong tinh thần đại thừa. Hình ảnh con trâu biểu tượng tâm chúng sinh. Từ một con trâu đen, qua quá trình điều phục dẫn dắt để trở thành trâu trắng. Cũng như thế, tâm chúng sinh cũng nhờ giới mới chế phục được tâm. Giới làm sạch những dơ bẩn của dục đưa con người vào định, tức vào sơ thiền. Khi tâm đã được điều phục sẽ không còn bản ngã, không còn chấp thủ, và không còn cả tâm.Tất cả đã buông xả hoàn toàn trở về trống không, tâm thức tĩnh lặng an lạc nhẹ nhàng. Hành giả lúc đó thảnh thơi hòa nhập cõi ta bà đi vào đời không vướng mắc. Hòa nhập giải thoát chứ không hội nhập để cứu độ chúng sinh.

   

   Kính thưa các bạn. Đó là tất cả những bài học của lớp 3 mà tôi tóm lược theo lời giảng của quí Thầy. Nhiều quá phải không các bạn? Thôi thì, chúng ta sẽ tóm gọn theo bài kệ rất nổi tiếng của Tổ Phước Hậu:

 Kinh điển lưu truyền tám vạn tư.

Học hành không thiếu cũng không dư.

Đến nay nghĩ lại chừng quên hết.

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ!(Như Lai)

 

Chúng ta chỉ nhớ đến Phật, chính là Đức Như Lai của chúng ta, nhớ đến lời dạy của Ngài qua lời giảng của quí Thầy trong khóa tu lần này, nhớ chút nào hay chút nấy.

  Nhưng nhìn chung, khóa Tu Học Âu Châu kỳ thứ 32, tuy trên không gian ảo, vì tổ chức online, nhưng lại người thật, việc thật. Những buổi giảng không phải là những bài thuyết giảng thông thường để Phật tử nghe qua cho biết hay giết thì giờ, mà là những bài học bài bản, giáo trình rõ ràng giúp cho Phật tử hiểu thêm về giáo lý, kinh điển của Đức Phật để tăng trưởng niềm tin và nâng cao trình độ, có vậy sự tín tâm càng sâu dày, vững chắc, Bồ Đề tâm càng kiên cố.

   Với tổng số lượng 516 học viên chia ra nhiều lớp chứng tỏ tinh thần học pháp rất cao của Phật tử Âu Châu nói riêng và cộng đồng Phật tử các nước Canada, Đài Loan, Nga, Úc, Hoa Kỳ, Việt Nam nói chung dù trái múi giờ. Đặc biệt tại Pháp có thêm 33 người bản xứ, đệ tử của chùa Thiện Minh Lyon tham dự vì chương trình có nói tiếng Pháp.

   Các giờ giảng, ngoài Giảng Sư, luôn có các anh em Gia Đình Phật Tử (GĐPT) Âu Châu, đặc biệt anh chị em nước Đức đã đóng góp tích cực, ngoài điều hành kỹ thuật vô cùng tuyệt vời chu đáo, làm MC giới thiệu chương trình, giới thiệu Giảng Sư, độc đáo và tuyệt vời nhất là sau mỗi buổi giảng, các anh chị em còn tóm lược tác pháp một cách thông suốt, nhuần nhuyễn giúp học viên hiểu rõ bài hơn, làm như anh em đã học từ kiếp trước như Ngài Huệ Năng vậy. Thật vô cùng đáng khen và ngưỡng mộ. Riêng quí Thầy thì…không thể nghĩ bàn, với thời gian các sư trẻ được đào luyện tập tành nay đã trở thành những vị Giảng Sư tuyệt vời không biết dùng lời gì để ….(?) ngoài lời…không thể nghĩ bàn! Đó chưa kể lực lượng Tăng, Ni trẻ thông thạo ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức để giảng dạy cho những học viên sinh trưởng xứ người không rành tiếng Việt. Cả một công trình vô cùng khó khăn để điều hợp, không biết nói sao ngoài câu…không thể nghĩ bàn!

   Buổi bế mạc, dù tổ chức online cũng không thiếu chương trình văn nghệ qua những lời ca tiếng nhạc và những màn vũ tập thể cũng do các anh em GĐPT đảm trách, mỗi người mỗi nhà trong tình trạng cách ly vạn dặm vẫn múa chung với nhau được.

        

khoa tu online-au chau-1khoa tu online-au chau-2




   Một ý kiến đáng ghi nhớ, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển, trước sự thành công không ngờ của khóa tu, đã có lời đề nghị Âu Châu nên thành lập một website riêng để có tiếng nói chung thay vì mỗi chùa đều làm riêng như bấy lâu.

   Lời sau cùng, riêng con, dù bất cứ khóa tu Âu Châu nào dưới hình thức nào, con vẫn không quên tri ân cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, người đầu tiên sáng lập đạo tràng để lại cho chúng Phật tử Âu Châu kế thừa và đương nhiên con cũng tri ân công sức quí Tăng, Ni cùng toàn thể Phật tử Âu Châu đã tận tụy tổ chức vô cùng bài bản với mong ước đem giáo pháp của Đức Phật truyền bá sâu rộng để Phật giáo luôn được trường tồn và phát triển.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Trần Thị Nhật Hưng

 

    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2011(Xem: 21675)
Con được biết - không chắc đúng không - hôm nay 28-4, là ngày Sinh Nhật Sư Phụ tròn 88 tuổi nên con viết vội đôi dòng kính chúc Sư Phụ luôn Phước Thọ tăng long, bách niên thọ thế để hàng đại chúng Bảo Vương của chúng con nói riêng và Giáo hội nói chung luôn có được bóng mát chỡ che tinh thần và trí tuệ của một trong số rất ít còn lại hàng đại lão hòa thượng của PGVN. Riêng con vẫn còn đó một đại tự điển sống về Phật học tinh hoa cũng như về lịch sữ Việt Nam thời cận đại.
15/05/2011(Xem: 7904)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 14548)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 7256)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
12/05/2011(Xem: 6539)
Hầu hết mọi người Phật tử Việt Nam đều không những có nghe biết mà còn thường xuyên sử dụng từ ngữ “Phật sự” Nhưng chính vì được nghe biết và sử dụng quá thông thường, cho nên, đôi khi chúng ta lại không có cơ hội để suy nghiệm về ý nghĩa thâm diệu của nó để ứng xử một cách kiến hiệu trong đời sống thường nhật. Cũng vì lý do này đã dẫn đến việc đánh mất tinh thần cốt tủy trong các Phật sự mà chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện.
11/05/2011(Xem: 5636)
Sống ở đời, chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố làm cho ta khổ, nhưng chung quy mọi khổ đau đều xuất phát từ chính mình.
09/05/2011(Xem: 14843)
"Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm (năm đó). Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh (Tokyo), nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng..."
09/05/2011(Xem: 20164)
Bài giảng cuối cùng, Câu chuyện xúc động về Giáo sư Randy --Cuốn sách mà bạn sắp đọc đây là 53 ngày sau đó nữa, là cách GS Randy Pausch tiếp tục những gì ông đã bắt đầu trên giảng đường hôm ấy, với sự giúp đỡ của nhà báo Jeffrey Zaslow. Hằng ngày vẫn đạp xe để tập luyện, trong 53 lần đạp xe như vậy ông đã trò chuyện với Jeffrey Zaslow qua điện thoại di động. Zaslow đã chuyển những câu chuyện thành cuốn sách này. Ngày 8-4-2008, sách được phát hành tại Mỹ. Hơn ba tháng sau, ngày 25-7-2008, gs Randy Pausch qua đời.
07/05/2011(Xem: 19503)
Tác giả Tâm Diệu, là cựu sinh viên của Viện Đại Học Vạn Hạnh, đã gửiđến cho tôi tập sách Quan Điểm Về Ăn Chay Của Đạo Phật.Nội dung chính xoáy quanh những điểm dị biệt trong vấn đề ănchay theo quan điểm của hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủyvà Đại thừa phát triển ngang qua một số kinh điển Phật giáo.Tác giả đã nêu bật được tính chất chung Từ bi và TríTuệ của Đạo Phật trong vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn còn mộtvài điểm trong đó chúng tôi nghĩ rằng cần phải có thờigian để làm sáng tỏ.
06/05/2011(Xem: 6780)
Như ai cũng biết, chúng ta sinh ra đời để sống và làm việc như bao nhiêu người trên thế gian này. Đó là ăn uống, ngủ nghỉ, rồi lớn lên lấy vợ lấy chồng, đi làm kiếm tiền nuôi bản thân, gia đình và đóng góp lợi ích xã hội, đến khi lớn tuổi về hưu thì già bệnh rồi chết. Đó là nói những người làm việc nhà nước có chính sách chế độ lương hưu. Còn những người tự làm tự sống, không làm việc nhà nước thì họ phải bươn chải đến khi không còn khả năng làm việc nữa mới thôi. Ai có phước thì được con cái chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng khoảng đời còn lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]