Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2

03/07/202111:43(Xem: 15920)
Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2

MẬT TÔNG KIM CANG THỪA CHÚ GIẢI
PHẬT GIÁO PHẠN HÁN VIỆT CHÚ NGỮ TOÀN THƯ
TẬP 2

Mat-Tong-Kim-Cang-Thua-Chu-Giai-Tap-2


Lời Thoại Đầu

             Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.

                     Kim Cang Thừa còn gọi là Bí Mật Đại Thừa, Kim cang là kim cang chử(chày kim cang), cũng là vũ khí cầm tay của Ấn Độ giáo Nhân Đà La Thần,Phật giáo xưng là Đế Thích Thiên(indriya), có ý nghĩa là kiên cố bất hoại và tối phá tất cả chướng ngại. Nên Kim Cang Thừa có quan hệ mật thiết với Ấn Độ giáo, vì phần đông dân Ấn Độ tin vào Ấn giáo, tin vào thần chú mantra , thực hành thiền định du già yoga, phô diễn thần thông. Trong kinh Vệ Đà còn nhiều ấn tích và lưu trữ như âm om và namah, nhiều cách cầu nguyện và thần chú. Sau 500 năm, Đức Phật nhập diệt, không có ai có thể chinh phục được Bà La môn giáo và thần dân Ấn độ, Đễ chinh phục và làm được điều này, là lưu truyền Phật giáo vào lòng dân ân độ, nhiều vị Bồ Tát đã y theo tiên tri của Đức Phật, mới khai bảo tạng mà Đức Thích Ca đã thuyết giảng, đã được lưu trữ trong Đại Bảo Tháp Đà La Ni, cho phù hợp với dòng truyền pháp hợp thời đại ấy,chính là các kinh đà la ni. Bảo tháp đó chứa đựng các kinh ấy, là do Kim Cang Thủ Bồ Tát viết lại các bộ kinh về mantra và sadhana(nghi quỹ) do Đức Phật thuyết.

     Về phương diện kinh điển, cấu trúc các bộ kinh chú, cũng có một số phần tương đồng với bà la môn giáo. Nhưng về phương diện ý nghĩa và thực hành pháp thì khác nhau rất rõ ràng. Bà la môn là quay về với tự thể của đấng tạo hóa là Tự Tại Thiên.Còn về Phật giáo mật thừa là quay về với bản tánh không bẩm sanh là đại ấn, thông qua phương tiện thần chú thông linh, tổng nhiếp thân khẩu ý tam mật thanh tịnh,kích thích tâm giác ngộ đã có, trở lại tâm tánh bản nguyên vô sanh vô diệt, bất khứ bất lai, thành tựu Phật quả. Đây cũng là Tổng chỉ của Kim Cang Mật Thừa nói chung, còn các thừa khác cũng như vậy. Nên trong Mật Thừa cũng có Đại Thừa và Thanh Văn Thừa, chỉ khác nhau ở cách trình bày giáo lý, giống nhau cùng một điểm đến là thành Phật.

      Về phương diện bí mật, đây là pháp môn bất khả tư nghị, bất khả đắc,các câu thần chú thông linh nhìn nó thì đơn giảng và khô khan, nhưng trong cấu trúc câu thần chú, và nghĩa thì thậm thâu sâu lắng. Chỉ cần một chữ om, thì có thể thâu cảm tam thiên đại thiên thế giới, và tổng nhiếp tất cả mười phương chư Phật.Như chữ hùm, có thể làm cho tất cả vị vua trời và thần quỷ quy phục,như hùm lửa năng trừ thiêu đốt tất cả tội từ vô thỉ đế hiện tại,hùm nước có uy lực làm thần long phun nước, mưa xuống mọi nơi khô hạn,hùm đất thì làm cho phú quý,cuộc đời tài vật sung túc…………………Ai muốn đạt được những lăng lực ấy, thì phải qua một vị Kim Cang Sư (thầy) truyền dạy, và thực hành với những pháp môn và nghi thức đã được chỉ dạy. Tôi xin nói thật phần đông đệ tử học pháp bây giờ, không ơn không nghĩa, nói nặng là không y giáo phụng hành. Họ học được một tí gì đó, tự phụ tự đắc ,cống cao ngạo mạng, nghĩa lý các thừa thì không dung thông, ngôn ngữ Phật học thì không thông, nói thì nhiều thực hành thì không có………Nên nhiều Vị Cao Tăng ,Kim Cang Sư đã đem đi tất cả sự tu hành thành tựu một đời về cõi Niết Bàn. Họ không phải là ích kỷ, mà con người học trò bây giờ, họ không có tâm(đạo đức), họ biến pháp biến thành kiến thức, hay là một món hàng kinh doanh, làm lợi ích cho chính họ, không vì lợi ích cho mọi người sau này. Nên ai muốn học Kim Cang Thừa, thì phải phát thề nguyện, kính Thầy như kính Phật, nhờ có Thầy chúng ta mới biết Phật Pháp Tăng. Thầy là Thầy của các vị Phật trong ba đời, nên người đệ tử phải quy kính và phụng dưỡng Thầy như cha mẹ chính mình. Đây là đạo đức của Phật giáo nói chung và Kim Cang Thừa nói riêng, hiện nay chúng ta đang mất dần nền căn bản đạo đức ấy!

      Mật Tông Kim Cang Thừa chú trọng về giáo lý khẩu truyền,là thầy truyền lại cho trò bằng khẩu quyết(lời nói).Giáo lý đức Phật dạy thâm sâu vô tận như đại dương không bờ bến,người học pháp khó mà đốn nhận được,mà chỉ có vị Thầy họ đã học và tích lũy kinh nghiệm thực hành pháp thành tựu.Những tinh hoa khẩu quyết của vị thầy như ngọn đèn soi sáng trí u ám của đệ tử,làm bừng sáng trí tuệ,chỉ dẫn người đệ tử nhập môn theo thứ tự tu hành ,sẽ nhanh chóng thành tựu.

       Về phương diện tu trì, Mật Tông Kim Cang Thừa có những quy luật về đạo đức và giới nguyện(samaya) tu hành. Người nhập đạo,phải quy y Kim Cang Thượng Sư(thầy), quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, thọ nhận 5 giới; 8 giới; thập thiện giới ;250 giới; cho đến Bồ Tát giới. Giới nguyện là phần quang trọng không thể thiếu,  như kim chỉ nam cho sự thành tựu, những phát nguyện như:tâm từ bi hỷ xả cứu chúng sanh;không não hại chúng sanh;không phản Thầy phụ bạn; không buôn bán pháp trục lợi(như lập đàn bao nhiêu tiền?cúng bao nhiêu tiền?………..),không sử dụng tà pháp (thư ;yếm) hại người và chúng phi nhơn (phá đình miếu) ;không cống cao ngạo mạng, tự phụ ta đây; nuôi dưỡng tâm đại bi đức hạnh và phát triển trí tuệ thành tựu chánh giác. Người hành trì không tuân theo giới nguyện này thì sẽ bị nhiễm ô, làm cho những Hộ Pháp sẽ tránh xa,hóa thần Bổn Tôn không xuất hiện,mạn đà la(đàn tràng)bị ô uế,người thực hành rỗng không,không thành tựu.

      Người tu Kim Cang Thừa phải biết phân giờ dương âm ,như 4 giờ sáng đến 1 chiều là giờ dương ,là giờ của Chư Phật Bồ Tát Thánh Chúng Chư Thiên Thần vận hành.1 giờ chiều đến đầu 4 giờ sáng là giờ âm,là giờ của ma vương quỷ vương và tất cả loại ma quỷ phi nhơn vận hành. Và giờ chánh dương là 11giờ trưa đến 12 giờ, là Chư Phật Bồ Tát Thánh Thần thọ thực. Giờ chánh âm 12 giờ khuya đến 1 giờ sáng Thiên Ma Quỷ Vương hồi sanh, là chúng mạnh nhất. Theo triền thống Đạo Gia Trung Quốc và các thầy luyện bùa chú, quan niệm rằng luyện tu thiền vào lúc 12 giờ khuya đến 1 giờ khuya, là giờ âm dương giao hợp,sẽ có uy lực thần thông. Đây là một sự ngộ nhận sai lầm lớn, vì tất cả loại quỷ ma điều tồn tại dưới dạng khí, khi hành thiền hô hấp không khí vào giờ này, quỷ ma vương sẽ theo đường hô hấp đi vào thẳng người đó, chiếm đạt tâm thức và các huyết mạch khác (bát mạch cửu khiếu). Người đó có thần thông trong tiên tri, cầu đảo bùa chú ấn lệnh và sai âm binh ma quỷ phi nhân, không phải là thần thông của bản thân họ mà chính là thần thông của ma vương quỷ vương ẩn hình trong người đó. Lúc đó họ làm thầy rất giỏi,làm đâu thắng đó ,nhưng chỉ một lúc, và để lại nhiều di chứng …như bệnh tật và chướng ngại cho mọi người. Lúc ấy, trên Chư Phật Bồ Tát đã nhìn thấy con ma quỷ mượn xác người gây hại cho chúng sanh trong người ấy rồi, liền sai Kim Cang Thần đến nơi,thâu bắt ma quỷ ấy,bỏ vào núi Thiết Vi,người ấy làm thầy hết linh……….., và thọ nhận nhân quả cho những hành động đã làm.Vì vậy Quý vị nên tham thiền quán tưởng niệm kinh chú vào giờ dương là tốt nhất trên có chư Phật Bồ Tát

    Thánh Chúng hộ trì. Vào giờ âm chỉ có tụng kinh chú và niệm Phật to tiếng, cho pháp giới âm linh nghe kinh tu tập, tuyệt đối không hành thiền quán tưởng vào giờ âm, dù tu chánh đạo cũng thành tà đạo, vì giờ này chư Phật Bồ Tát Thánh Chúng an nghỉ, không hộ trì,ma vương quỷ vương sẽ chiếm tâm thức,ngay cả người tu hành chân chính cũng không tránh được, nếu người đó tu sai giờ. Người tu sai giờ, tâm tính thay đổi bất thường,s ẽ đi lầm đường,tham tiền của quý……..vv…..gây nhiều lầm lỗi trái đạo.Đây là khẩu quyết rất quang trọng,quý vị cần nhớ lấy.

   Vào thời đại đen tối ,Bồ Tát Liên Hoa Sanh duy ngôn:Thiết điểu phi không(máy bay bay vào không trung), thiết long nhập hải(tàu ngầm đi trong lòng đại dương). Thế giới nhân sanh khủng hoảng, chiến tranh thiên tai bệnh dịch trùng trùng sanh khởi,sự tàn phá dữ dội thiên nhiên của con người, với bằng tay khoa học hiện đại. Sự phá vỡ cam kết các thệ nguyện của chúng sanh đối với các đấng thiêng liêng thần bảo hộ. Như thần biển,thần sông, thần núi, thần cây, thần lửa và thần gió, họ không đồng lòng thủ hộ con người, khi con người tàn phá họ, …….như phá rừng phá núi, khai thác khoáng sản…..vv…….Vậy thế giới hôm nay, chúng ta phát triển hoa lệ, nhưng tàn phá thiên nhiên là không bù đắp được, nên chúng ta phải chấp nhập những tai họa thiên nhiên mà chính chúng ta tạo ra.

       Hiện trạng thế giới hôm nay phủ đầy sắc khí u ám,đây là nhân chứng cho chúng ta,đã phá đi các samaya thệ nguyện minh ước. Pháp môn Kim Cang Thừa là sự liên kết thần lực giữa con người với các Đấng Bảo Hộ, qua những cầu nguyện cam kết thệ nguyện samaya, qua những câu thần chú làm phương tiện kết nối(thông linh), qua âm thanh thần bí làm những minh ước, qua Hóa Thần Bổn Tôn làm cho những vị Thần Bảo Hộ được an vui, qua mạn đà la(mandala) rửa sạch nghiệp chướng của thế giới chúng sanh đã tạo. Chúng ta phải cố gắn tu tập, qua con đường thực hành giáo pháp,đi lên với đạo đức. Cầu nguyện Các Đấng thiêng liêng, Chư Phật Bồ Tát và Các Thần Kim Cang Hộ Pháp Bảo Hộ , đánh tan những che chướng, dập tắt các chướng nạn,ngăn chặn các thế lực ác, sẽ làm cho thế giới an vui hòa bình, chúng sanh được hạnh phúc.

Kính lời
Kim Cang Sư
Tk.Thích Linh Quang
pdf-icon

Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải - Tập 2



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 5003)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4505)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3733)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7534)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4734)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6169)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5316)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12061)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5342)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 4920)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]