Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỷ niệm 20 năm tượng Phật Khổng lồ tại Bamiyan, Afghanistan bị Phá hủy

03/04/202112:36(Xem: 5338)
Kỷ niệm 20 năm tượng Phật Khổng lồ tại Bamiyan, Afghanistan bị Phá hủy

Kỷ niệm 20 năm

tượng Phật Khổng lồ tại Bamiyan, Afghanistan bị Phá hủy

(Commemorating 20 years since the destruction of two Buddhas of Bamiyan, Afghanistan)

 Tin Quốc tế-20210403

Sự tàn phá bi thảm của các tượng Phật khổng lồ trên vách đá vùng Bamiyan, Afghanistan, được bảo tồn hơn 15 thế kỷ, được phát sóng trên toàn cầu, đã dẫn đến sự công nhận toàn cầu về sự cần thiết phải bảo vệ các di sản văn hóa đang bị đe dọa.

 


Các hốc trống của các tượng Phật khổng lồ ở thung lũng Bamiyan, Afghanistan là lời nhắc nhở mãi mãi về nhiệm vụ của chúng ta trong việc bảo vệ di sản văn hóa, và những thế hệ tương lai sẽ mất đi nếu chúng ta không làm như thế. Ngày nay, những hốc đá này được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới như một phần của Di sản Thế giới “Cảnh quan văn hóa và các di tích khảo cổ học tại Thung lũng Bamiyan” (Cultural Landscape and Archaeological Remains of the Bamiyan Valley)

 

Mặc dù việc phá hủy di sản và cướp bóc các đồ tạo tác đã diễn ra từ thời cổ đại, sự kiện hai pho tượng Phật vùng thung lũng Bamiyan bị phá hủy, đại diện cho một bước ngoặt quan trọng đối với cộng đồng quốc tế. Một hành động phá hoại có chủ ý, được thúc đẩy bởi một hệ tư tưởng cực đoan nhằm phá hủy văn hóa, bản sắc và lịch sử, việc hai tượng Phật khổng lồ bị mất tích đã tiết lộ cách thức mà việc phá hủy di sản có thể được sử dụng như một vũ khí chống lại người dân địa phương. Nó nêu bật mối liên hệ chặt chẽ giữa việc bảo vệ di sản và hạnh phúc của con người và cộng đồng. Nó nhắc nhở chúng ta rằng bảo  vệ đa dạng văn hóa không phải là điều xa xỉ, mà là cơ bản để xây dựng các xã hội hòa bình hơn.

 

Kể từ khi hai pho tượng Phật ở thung lũng Bamiyan bị phá hủy, chính phủ Afghanistan và cộng đồng quốc tế, bao gồm cả UNESCO, đã miệt mài  trong công việc không mệt mõi để bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên phong phú của Afghanistan, minh chứng cho việc giao lưu giữa các nền văn hóa và dân tộc khác nhau trải qua thiên niên kỷ.

 

Năm 2003, “Cảnh quan văn hóa và các di tích khảo cổ học tại Thung lũng Bamiyan” (Cultural Landscape and Archaeological Remains of the Bamiyan Valley) đã được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới và Danh sách Di sản Thế giới đang bị đe dọa, do sự vô cùng mong manh của các hốc đá, thiếu khung quản lý và những lo ngại về sự an toàn và bảo tồn.

 

Kể từ đó, nhờ sự hợp tác quốc tế bền vững và lâu dài, hơn 27 triệu USD đã được đầu tư vào việc bảo tồn và ổn định tài sản Di sản Thế giới, trao quyền cho cộng đồng địa phương vùng Bamiya, phục hồi di sản văn hóa phi vật thể, trong số các hoạt động khác dành riêng cho sự sáng tạo, và xây dựng Trung tâm Văn hóa Bamiyan. Các đối tác quốc tế vẫn nỗ lực tham gia vào thông qua các dự án hoạt động này, đặc biệt là sáu giai đoạn kế tiếp của dự án, nhằm ổn định các hốc đá có nguy cơ sụp đổ. Sau hơn 15 năm, việc củng cố ngách đá phía Đông đã hoàn thành, trong khi công việc khẩn cấp đang được tiến hành để bảo vệ ngách phía Tây, nhờ nguồn vốn từ Nhật Bản. Sự hợp tác này cũng đã được mở rộng thành phần khác đến bảy địa điểm trong Thung lũng Bamiyan, bao gồm các hang động được bao phủ bởi các bức tranh tường, những biểu hiện đáng chú ý bởi ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc dọc theo Con đường Tơ lụa, và Pháo đài Shahr-e Gholghola, nơi đánh dấu nguồn gốc của sự định cư vùng Bamiyan. Những nỗ lực này được Nhật Bản và Ý hỗ trợ về mặt tài chính và kỹ thuật. UNESCO rất hân hạnh được hợp tác với Liên minh Châu Âu, Đức, Hàn Quốc, Thụy Sĩ và các quốc gia khác trong công việc tại thung lũng Bamiyan.

 

Một hội thảo quốc tế vào năm 2017, đã nhấn mạnh sự cần thiết của các nghiên cứu sâu hơn về bất kỳ sự tái thiết nào có thể xảy ra đối với các tượng Phật. Gần đây, UNESCO và Springer đã xuất bản “The Future of the Bamiyan Buddha Statues: Heritage Reconstruction in Theory and Practice” (Tương lai của những pho tượng Phật ở Bamiyan: Tái tạo Di sản trong Lý thuyết và Thực hành), một bộ sưu tập các bài báo khoa học về vấn đề cực kỳ phức tạp này. Khi chúng tôi xem xét việc tái tạo di sản, là duy nhất mỗi trường trường hợp, và tình huống này đòi hỏi một cách tiếp cận với sự tôn trọng sâu sắc đối với các cộng đồng địa phương. UNESCO và các đối tác đã tiếp tục làm việc về chủ đề này, đặc biệt là thông qua “Hội thảo Quốc tế về việc Tái thiết: Những thách thức của việc Phục hồi Di sản Thế giới” (International Conference on Reconstruction: The Challenges of World Heritage Recovery) được tổ chức vào tháng 5 năm 2018 tại Warsaw, thủ đô của Ba Lan và cũng là một trong những thành phố lớn nhất ở Châu Âu, dẫn đến Khuyến nghị Warsaw về việc Phục hồi và Tái tạo Di sản Văn hóa.

 

Thật bi thảm, bắt đầu từ vùng thung lũng Bamiyan, chúng ta đã chứng kiến sự tàn phá có chủ đích, hơn nữa đối với di sản văn hóa ở Syria, Iraq, Libya, Mali và những nơi khác. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế đã không im lặng trước những hành động bạo lực này. Sau sự cố tại Bamiyan, các quốc gia thành viên của UNESCO đã thông qua Tuyên bố về việc cố ý phá hủy di sản văn hóa vào ngày 17 tháng 10 năm 2003. vào năm 2012, sau việc phá hủy các di sản văn hóa ở Timbuktu, một thành phố cổ ở vùng Tombouctou, Mali, việc cố ý phá hủy di sản văn hóa đã được cộng đồng quốc tế lên án là tội ác chiến tranh. Năm 2016, Tòa án Hình sự Quốc tế đã kết luận một bị cáo phạm tội ác chiến tranh vì đã chỉ đạo việc phá hủy các lăng mộ vào năm 2012 ở Timbuktu, Tòa án đã phán quyết đầu tiên như vậy. Trong những năm gần đây, UNESCO, bao gồm cả thông qua Quỹ Khẩn cấp Di sản, đã hỗ trợ các nỗ lực tái thiết, chuẩn bị và ứng phó khẩn cấp ở hơn 60 quốc gia.

 

Khi đánh dấu 20 năm kể từ khi lượng Taliban ở Afghanistan đã đặt mìn làm nổ tung hai tượng Phật khổng lồ trên vách đá vùng Bamiyan, có tuổi đời hơn 15 thế kỉ, tại UNESCO, chúng tôi nhắc lại sự ủng hộ của chúng tôi đối với người dân Afghanistan và củng cố cam kết sát cánh cùng mọi người ở khắp mọi nơi để bảo vệ di sản văn hóa như một hiện thân của nhân loại chung của chúng ta.

 

Ernesto Ottone R.

Trợ lý Tổng Giám đốc UNESCO phụ trách Văn hóa

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: UNESCO World Heritage Centre)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2015(Xem: 9109)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
26/03/2015(Xem: 8307)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9867)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9798)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7879)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 7664)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
19/03/2015(Xem: 8322)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
15/03/2015(Xem: 6667)
Tôi có hai người bạn. Là bạn nhưng họ trẻ hơn tôi quãng chục tuổi. Là bạn vì chúng tôi khá quý mến nhau, có nhiều điểm tương đồng và hay sinh hoạt bên nhau. Tên khai sinh của họ là Châu Thương và Mỹ Hằng. Pháp danh của hai bạn này là Nguyên Niệm là Thánh Đức. Điểm thú vị rằng đây lại là một cặp vợ chồng.
14/03/2015(Xem: 8768)
Việc tu hành trên hết là để giải tỏa áp lực của tâm lý. Và áp lực đó nếu nghĩ theo cách thông thường, thì nó luôn đến từ ngoại giới. Vì chúng ta sống trong đời sống, mà không có một tấm lòng để gió cuốn đi. Mà chúng ta chỉ sống với nhau luôn bằng tham, sân, si, cho nên áp lực sẽ đến với chúng ta liên tục là đương nhiên. Nhưng nếu chúng ta quanh năm ngồi một chỗ không đi đâu cả, thì tâm lý vẫn có vấn đề khó khăn như thường. Đó là do chúng ta luôn sống trong vọng tưởng, và ảo tưởng mà thành ra như thế thôi.
13/03/2015(Xem: 10212)
Chánh Niệm cho Tình Yêu Bài của Đỗ Thiền Đăng Diễn đọc: Trọng Nghĩa - Mộng Lan
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]